Với bút hiệu tựdo ‒ chữ thường,
viết liền ‒ ông Nguyễn Văn Luận là tác giả bài “Người tìm tự do và tượng thần tự
do” đã được bình chọn trúng giải chính thức trong giải sơ kết 3 tháng Giải
Thưởng Việt Báo Viết Về Nước Mỹ. Tác giả sinh năm 1937, hiện cư ngụ tại
Worcester, Massachusetts. Sau đây là bài viết mới nhất của
ông.
Ông Hòa là cựu sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa,
bị Cộng sản bắt đi tù năm 1975, sang Mỹ theo diện HO. Tôi gặp ông tại một tiệc
cưới, trở thành bạn, thường gặp nhau bởi cùng sở thích, nói chuyện văn chương,
thời thế, dù trong quá khứ ông sống tại miền Nam, tôi ở xứ
Bắc.
Một lần tới thăm, cháu Thu
Lan, con ông Hòa, hỏi tôi, “Bác ở Hà Nội mà cũng đi tị nạn
à...?” Nghe hỏi tự nhiên nên tôi chỉ cười, “Cái cột đèn mà biết đi,
nó cũng đi, ...nữa là bác!”
Thực ra tôi đã không trốn thoát được từ lần
đầu “vượt tuyến” vào miền Nam. Rồi thêm nhiều lần nữa và 2 lần “vượt biển”, vẫn
không thoát. Chịu đủ các “nạn” của chế độ cộng sản trong 27 năm ở lại miền Bắc,
tôi không tị nạn, mà đi tìm Tự Do, trở thành thuyền nhân, đến nước Mỹ năm 1982.
Sinh trưởng tại Hà Nội, những năm đầu sống
ở Mỹ, tôi đã gặp nhiều câu hỏi như cháu Thu Lan, có người vì tò mò, có người
giễu cợt . Thời gian rồi cũng hiểu nhau.
Tôi hằng suy nghĩ và muốn viết những giòng
hồi tưởng, vẽ lại bức tranh Hà Nội xưa, tặng thế hệ trẻ, và riêng cho những
người Hà Nội di cư.
Người dân sống ở miền Nam trù phú, kể cả
hàng triệu người di cư từ miền Bắc, đã không biết được những gì xảy ra tại Hà
Nội, thời người cộng sản chưa vận com-lê, đeo cà-vạt, phụ nữ không mặc áo
dài. Hiệp định Geneva chia đôi nước Việt. Cộng sản, chưa lộ mặt là Cộng sản,
tràn vào miền Bắc tháng 10 năm 1954. Người Hà Nội đã “di cư” vào miền Nam, bỏ
lại Hà Nội hoang vắng, tiêu điều, với chính quyền mới là Việt Minh, đọc tắt lại
thành Vẹm. Vì chưa trưởng thành, tôi đã không hiểu thế nào là
...Vẹm!
Khi họ tiếp quản Hà Nội, tôi đang ở Hải
phòng. Dân đông nghịt thành phố, chờ tầu há mồm để di cư. Trước Nhà Hát Lớn,
vali, hòm gỗ, bao gói xếp la liệt. Lang thang chợ trời, tôi chờ cha tôi quyết
định đi Nam hay ở lại. Hiệp định Geneva ghi nước Việt Nam chỉ tạm thời chia cắt,
hai năm sau sẽ “Tổng tuyển cử” thống nhất. Ai ngờ cộng sản miền Bắc “tổng tấn
công” miền Nam!
Gia đình lớn của tôi, không ai làm cho
Pháp, cũng không ai theo Việt Minh. Cha tôi làm chủ một hãng thầu, nghĩ đơn giản
là dân thường nên ở lại. Tôi phải về Hà Nội học.
Chuyến xe lửa Hà Nội “tăng bo” tại ga Phạm
Xá, nghĩa là hai chính quyền, hai chế độ, ngăn cách bởi một đoạn đường vài trăm
mét, phải đi bộ hoặc xe ngựa. Người xuống Hải phòng ùn ùn với hành lý để đi Nam,
người đi Hà Nội là con buôn, mang xăng về bán. Những toa tầu chật cứng người và
chất cháy, từ chai lọ đến can chứa nhà binh, leo lên nóc tầu, bíu vào thành toa,
liều lĩnh, hỗn loạn ...
Tới cầu Long Biên tức là vào Hà Nội. Tầu
lắc lư, người va chạm người. Thằng bé ù chạc 15 tuổi, quắc mắt nhìn tôi, “Ðề
nghị đồng chí xác định lại thái độ, lập trường tư tưởng!” Tôi bàng hoàng vì
thứ ngoại ngữ Trung quốc, phiên âm thành tiếng Việt, nghe lần đầu không hiểu, để
rồi phải “học tập” suốt 20 năm, “ngoại ngữ cộng sản”: đấu tranh, cảnh giác, căm
thù và ... tiêu diệt giai cấp! (Thứ ngôn ngữ này ghi trong ngoặc
kép).
Hà Nội im lìm trong tiết đông lạnh giá,
người Hà Nội e dè nghe ngóng từng “chính sách” mới ban hành. “Cán bộ” và “bộ
đội” chỉ khác nhau có ngôi sao trên mũ bằng nan tre, phủ lớp vải mầu cỏ úa, gọi
là “mũ bộ đội”, sau này có tên là “nón cối”. Hà Nội “xuất hiện” đôi dép “Bình
Trị Thiên”, người Bắc gọi là “dép lốp”, ghi vào lịch sử thành “dép râu”. Chiếc
áo dài duyên dáng, thướt tha của thiếu nữ Hà Nội được coi là “biểu hiện” của “tư
sản, phong kiến”, biến mất trong mười mấy năm sau, vì “triệt để cách
mạng”.
Lần đầu tiên, “toàn thể chị em phụ nữ” đều mặc giống nhau: áo “sơ
mi”, quần đen. Hãn hữu, như đám cưới mới mặc sơ mi trắng vì “cả nước” không có
xà phòng.
Chơi vơi trong Hà Nội, tôi đi tìm thầy xưa,
bạn cũ, hầu hết đã đi Nam. Tôi phải học năm cuối cùng, Tú tài 2, cùng một số
“lớp Chín hậu phương”, năm sau sẽ sát nhập thành “hệ mười năm”. Số học sinh “lớp
Chín” này vào lớp không phải để học, mà là “tổ chức Hiệu đoàn”, nhận “chỉ thị
của Thành đoàn” rồi “phát động phong trào chống văn hóa nô dịch!”
Họ
truy lùng... đốt sách! Tôi đã phải nhồi nhét đầy ba bao tải, Hiệu đoàn “kiểm
tra”, lục lọi, từ quyển vở chép thơ, nhạc, đến tiểu thuyết và sách quý, mang
“tập trung” tại Thư viện phố Tràng Thi, để đốt. Lửa cháy bập bùng mấy ngày,
trong niềm “phấn khởi”, lời hô khẩu hiệu “quyết tâm”, và “phát biểu của bí thư
Thành đoàn”: tiểu thuyết của Tự Lực Văn Ðoàn là ... “cực kỳ phản động!” Vào lớp
học với những “phê bình, kiểm thảo...cảnh giác, lập trường”, tôi đành bỏ học.
Chiếc radio Philip, “tự nguyện “ mang ra “đồn công an”, thế là hết, gia tài của
tôi!
Mất đời học sinh, tôi bắt đầu cuộc sống đọa
đày vì “thành phần giai cấp”, “sổ hộ khẩu”, “tem, phiếu thực phẩm”, “lao động
nghĩa vụ hàng tháng”. Ðây là chính sách dồn ép thanh niên Hà Nội đi “lao động
công trường”, miền rừng núi xa xôi. Tôi chỉ bám Hà Nội được 2 năm là bị “cắt hộ
khẩu”, ...đi tù!
Tết đầu tiên sau “tiếp quản”, còn được gọi
là “sau hòa bình lập lại”, Hà Nội mơ hồ. Những bộ mặt vàng võ, áo quần nhầu nát,
xám xịt, thái độ “ít cởi mở”, từ “nông thôn” kéo về tiếp quản chiếm nhà người Hà
Nội di cư. Người Hà Nội ở lại bắt đầu hoang mang vì những tin dồn và “chỉ thị”:
ăn Tết “đơn giản, tiết kiệm”. Hàng hóa hiếm dần, “hàng nội” thay cho “hàng
ngoại”.
Âm thầm, tôi dạo bước bên bờ Hồ Gươm, tối
30 Tết. Tháp Rùa, Cầu Thê Húc nhạt nhòa, ảm đạm, đền Ngọc Sơn vắng lặng. Chỉ có
Nhà Thủy Tạ, đêm nay có ca nhạc, lần cuối cùng của nghệ sĩ Hà Nội. Ðoàn Chuẩn
nhớ thương hát “Gửi người em gái miền Nam”, để rồi bị đấu tố là phong cách tiểu
tư sản, rạp xinê Ðại Ðồng phố Hàng Cót bị “tịch thu”. Hoàng Giác ca bài “Bóng
ngày qua”, bị kết tội thành “tề ngụy”, hiệu đàn nhỏ phố Cầu Gỗ phải dẹp, vào tổ
đan mũ nan, làn mây, sống “tiêu cực” hết đời trong đói nghèo, khốn khổ. Danh ca
Minh Ðỗ, Ngọc Bảo, nhạc sĩ Tạ Tấn, sau này làm gì, sống ra sao, “phân tán”,
chẳng ai còn dám gặp nhau, sợ thành “phản động tụ tập”.
“Chỉ thị Ðảng và Ủy ban Thành” “phổ biến
rộng rãi trong quần chúng” là diệt chó. “Toàn dân diệt chó”, từ thành thị đến
“nông thôn”. Gậy gộc, giây thừng, đòn gánh, nện chết hoặc bắt trói, rồi đầu
làng, góc phố “liên hoan tập thể”. Lý do giết chó, nói là trừ bệnh chó dại,
nhưng đó là “chủ trương”, chuẩn bị cho đấu tố “cải tạo tư sản” và “cải cách
ruộng đất”. Du kích, công an rình mò, “theo dõi”, “nắm vững tình hình” không bị
lộ bởi chó sủa. Mọi nơi im phăng phắc ban đêm, mọi người nín thở đợi chờ thảm
họa.
Hà Nội đói và rách, khoai sắn chiếm 2 phần tem gạo, 3 mét vải “cung
cấp” một năm theo “từng người trong hộ”. Mẹ may thêm chiếc quần “đi lao động “
thì con nít cởi truồng. Người thành thị, làm cật lực, xây dựng cơ ngơi, có ai
ngờ bị quy là “tư sản bóc lột”? nhẹ hơn là “tiểu tư sản”, vẫn là “đối tượng của
cách mạng”.
Nông dân có dăm sào ruộng đất gia truyền
vẫn bị quy là “địa chủ bóc lột, cường hào ác bá ”! Giáo sư Trương văn Minh, hiệu
trưởng trường Tây Sơn, ngày đầu “học tập”, đã nhẩy lầu, tự
tử.
“Tư sản Hà Nội” di cư vào Nam hết , chẳng
còn bao nhiêu nên “công tác cải tạo được làm “gọn nhẹ” và “thành công vượt mức”,
nghĩa là mang bắn một, hai người “điển hình”, coi là “bọn đầu xỏ” “đầu cơ tích
trữ”, còn thì “kiểm kê”, đánh “thuế hàng hóa”, “truy thu”, rồi “tịch thu” vì
“ngoan cố, chống lại cách mạng!”
Báo, đài hàng ngày tường thuật chuyện đấu
tố, kể tội ác địa chủ, theo bài bản của “đội cải cách” về làng, “bắt rễ” “bần cố
nông”, “chuẩn bị thật tốt”, nghĩa là bắt học thuộc lòng “từng điểm”: tội ác địa
chủ thì phải có hiếp dâm, đánh đập, bắt con ở đợ, “điển hình” thì mang thai nhi
cho vào cối giã, nấu cho lợn ăn, đánh chết tá điền, hiếp vợ sặc máu ...! Một vài
vụ, do “Ðảng lãnh đạo”, “vận động tốt”, con gái, con dâu địa chủ, “thoát ly giai
cấp”, “tích cực” “tố cáo tội ác” của cha mẹ . Cảnh tượng này thật não nùng! Lời
Bác dạy suốt mấy mươi năm: “Trung với Ðảng, hiếu với dân ...” là
vậy!
“Bần cố nông” cắm biển nhận ruộng được
chia, chưa cấy xong hai vụ thì phải “vào hợp tác”, “làm ăn tập thể”, ruộng đất
lại thu hồi về “cộng sản”.
“Toàn miền Bắc” biết được điều “cơ bản” về
Xã hội chủ nghĩa là... nói dối! Mọi người, mọi nhà “thi đua nói dối”, nói những
gì Ðảng nói. Nói dối để sống còn, tránh bị “đàn áp”, lâu rồi thành “nếp sống”,
cả một thế hệ hoặc lặng câm, hoặc nói dối, vì được “rèn luyện” trong xã hội ngục
tù, lấy “công an” làm “nòng cốt” chế độ.
Ở Mỹ, ai hỏi bạn: “How are you?”, bạn trả
lời: “I’m fine, thank you”. Ở miền Bắc, thời đại Hồ chí Minh, “cán bộ” hỏi:
“công tác” thế nào? Dù làm nghề bơm xe, vá lốp, người ta trả lời, “...rất phấn
khởi, ra sức thi đua, lập thành tích chào mừng... các nước anh
em!”
Bị bắt bên bờ sông Bến Hải, giới tuyến chia
hai miền Nam Bắc, năm 19 tuổi, tôi bị “bộ đội biên phòng”giong về Lệ Thủy, được
“tự do” ở trong nhà chị “du kích” hai ngày, đợi đò về Ðồng Hới.
Trải 9
trại giam nữa thì về tới Hỏa Lò Hà Nội, vào xà lim. Cảnh tù tội chẳng có gì tươi
đẹp, xã hội cũng là một nhà tù, không như báo, đài hằng ngày kêu to “Chế độ ta
tươi đẹp”.
Cơ hàn thiết thân, bất cố liêm sỉ, người tù
“biến chất”, người tứ chiến kéo về, nhận là người Hà Nội, đói rét triền miên nên
cũng “biến chất”! Ðối xử lọc lừa, gia đình, bè bạn, họ hàng, “tiếp xúc” với nhau
phải “luôn luôn cảnh giác”. Hà Nội đã mất nền lễ giáo cổ xưa, Hà Nội suy xụp
tinh thần vì danh từ “đồng chí”! Nằm trong xà lim, không có ngày đêm, giờ
giấc, nghe tiếng động mà suy đoán “tình hình”. Ánh điện tù mù chiếu ô cửa sổ nhỏ
song sắt, cao quá đầu, tôi đứng trên xà lim, dùng ngón tay vẽ chữ lên tường,
“liên lạc” được với Thụy An ở xà lim phía trước.
Thụy An là người Hà Nội ở lại, “tham gia
hoạt động “Nhân Văn Giai Phẩm, đòi tự do cho văn nghệ sĩ, sau chuyển lên rừng,
không có ngày về Hà Nội. Bà phẩn uất, đã dùng đũa tre chọc mù một mắt, nói câu
khí phách truyền tụng: “Chế độ này chỉ đáng nhìn bằng nửa con
mắt!”
Người du lịch Việt Nam, ít có ai lên vùng
thượng du xứ Bắc, tỉnh Lào Cai, có trại tù Phong Quang hà khắc, có thung lũng
sâu heo hút, có tù chính trị chặt tre vầu theo “định mức chỉ tiêu”. Rừng núi bao
la, tiếng chim “bắt cô trói cột”, nấc lên nức nở, tiếng gà gô, thức giấc, sương
mù quanh năm.
Phố Hàng Ðào Hà Nội, vốn là “con đường tư
sản”, có người trai trẻ tên Kim, học sinh Albert Sarraut. Học trường Tây thì
phải chịu sự “căm thù đế quốc” của Ðảng, “đế quốc Pháp” trước kia và “đế quốc
Mỹ” sau này. Tù chính trị nhốt lẫn với lưu manh, chưa đủ một năm, Kim Hàng Ðào
“bất mãn” trở thành Kim Cụt, bị chặt đứt cánh tay đến vai, không thuốc, không
“nhà thương” mà vẫn không chết.
Phố Nguyễn công Trứ gần Nhà Rượu, phía Nam
Hà Nội, người thanh niên đẹp trai, có biệt danh Phan Sữa, giỏi đàn guitar, mê
nhạc Ðoàn Chuẩn, đi tù Phong Quang vì “lãng mạn tiểu tư sản”. Không hành lý
nhưng vẫn ôm theo cây đàn guitar. Chỉ vì “tiểu tư sản”, không “tiến bộ”, không
có ngày về...! Ba tháng “kỷ luật”, Phan Sữa hấp hối, khiêng ra khỏi Cổng Trời
cao vút, gió núi mây ngàn, thì tiêu tan giấc mơ Tình nghệ
sĩ!
Người già Hà Nội chết dần, thế hệ thứ hai,
“xung phong”, “tình nguyện” hoặc bị “tập trung” xa rời Hà Nội. Bộ công an “quyết
tâm quét sạch tàn dư đế quốc, phản động”, nên chỉ còn người Hà Nội từ “kháng
chiến” về, “nhất trí tán thành” những gì Ðảng ... nói dối!
Tôi may mắn sống sót, dù mang lý lịch “bôi
đen chế độ”, “âm mưu lật đổ chính quyền”, trở thành người “Hà Nội di cư”, 10 năm
về Hà Nội đôi lần, khó khăn vì “trình báo hộ khẩu”, “tạm trú tạm vắng”. “Kinh
nghiệm bản thân”, “phấn đấu vượt qua bao khó khăn, gian khổ”, số lần tù đã quên
trong trí nhớ, tôi sống tại Hải phòng, vùng biển.
Hải phòng là cơ hội “ngàn năm một thuở” cho
người Hà Nội “vượt biên” khi chính quyền Hà Nội chống Tầu, xua đuổi “người Hoa”
ra biển, khi nước Mỹ và thế giới đón nhận “thuyền nhân” tị
nạn.
Năm 1980, tôi vào Sài Gòn, thành phố đã mất
tên sau “ngày giải phóng miền Nam”. Vào Nam, tuy phải lén lút mà đi, nhưng vẫn
còn dễ hơn “di chuyển” trong các tỉnh miền Bắc trước đây. Tôi bước trên đường Tự
Do, hưởng chút dư hương của Sài gòn cũ, cảnh tượng rồi cũng đổi thay như Hà Nội
đã đổi thay sau 1954 vì “cán ngố” cai trị.
Dân chúng miền Nam “vượt biển” ào ạt, nghe
nói dễ hơn nên tôi vào Sài Gòn, tìm manh mối. Gặp cha mẹ ca sĩ Thanh Lan tại
nhà, đường Hồ Xuân Hương, gặp cựu sĩ quan Cộng Hòa, anh Minh, anh Ngọc, đường
Trần Quốc Toản, tù từ miền Bắc trở về. Ðường ra biển tính theo “cây”, bảy, tám
cây mà dễ bị lừa. Chị Thanh Chi (mẹ Thanh Lan) nhìn “nón cối” “ngụy trang” của
tôi, mỉm cười: “Trông anh như cán ngố, mà chẳng ngố chút
nào!”
“Hà Nội, trí thức thời Tây, chứ bộ...!. Cả
nước Việt Nam, ai cũng sẽ trở thành diễn viên, kịch sĩ giỏi!” Về lại Hải
Phòng với “giấy giới thiệu” của “Sở giao thông” do “móc ngoặc” với “cán bộ miền
Nam” ở Saigòn, tôi đã tìm ra “biện pháp tốt nhất” là những dân chài miền Bắc
vùng ven biển. Ðã đến lúc câu truyền tụng “Nếu cái cột điện mà biết đi....”, dân
Bắc “thấm nhuần” nên “nỗ lực” vượt biên.
Năm bốn mươi tư tuổi, tôi tìm được Tự Do,
định cư tại Mỹ, học tiếng Anh ngày càng khá, nhưng nói tiếng Việt với đồng
hương, vẫn còn pha chút “ngoại ngữ Việt cộng” năm xưa.
Cuộc sống của tôi ở Việt Nam đã đến “mức
độ” khốn cùng, nên tan nát, thương đau. Khi đã lang thang “đầu đường xó chợ” thì
mới đủ “tiêu chuẩn” “xuống thành phần”, lý lịch có thể ghi là “dân nghèo thành
thị”, nhưng vẫn không bao giờ được vào “công nhân biên chế nhà nước”. Tôi mang
nhẫn nhục, “kiên trì” sang Mỹ, làm lại cuộc đời nên “đạt kết quả vô cùng tốt
đẹp”, “đạt được nguyện vọng” hằng ước mơ!
Có người “kêu ca” về “chế độ
tư bản” Mỹ tạo nên cuộc sống lo âu, tất bật hàng ngày, thì xin “thông cảm” với
tôi, ngợi ca nước Mỹ đã cho tôi nhân quyền, dân chủ, trở thành công dân Hoa kỳ
gốc Việt, hưởng đầy đủ “phúc lợi xã hội”, còn đẹp hơn tả trong sách Mác Lê về
giấc mơ Cộng sản.
Chủ nghĩa cộng sản sụp đổ rồi. Cộng sản
Việt Nam bây giờ “đổi mới”. Tiếng “đổi” và “đổ” chỉ khác một chữ “i”. Người Việt
Nam sẽ cắt đứt chữ “i”, dù phải từ từ, bằng “diễn biến hòa bình”. Chế độ Việt
cộng “nhất định phải đổ”, đó là “quy luật tất yếu của lịch sử nhân
loại”.
Ôi! “đỉnh cao trí tuệ”,
một mớ danh từ ...!
|
|