Năm 1958, cuốn phim “Một thời để yêu và một thời để chết” (A Time to Love and a time to die) dựa theo cuốn tiểu thuyết cùng tên của Văn Hào Erich Maria Remarque, đã làm cho hàng chục triệu trái tim trên thế giới xúc động. Những cá nhân trong truyện, thoạt đến, thoạt đi, như chuyện Liêu Trai, mới xuất hiện phút trước thì phút sau đã ra người thiên cổ. Chuyện tình của người chiến binh trong phim đó cũng chỉ là một giai đoạn ngắn ngủi trong một đời người.
Những phim chiến tranh khác, “Giã từ vũ khí” (Farewell to Arms), “Ngày D” (The D day), và gần đây nhất, phim “Giải cứu Binh Nhì Ryan” (Saving Private Ryan) thực hiện năm 1998, đã cho khán giả một khía cạnh khác của chiến tranh, không phải khía cạnh dã man, tàn bạo chỉ có súng, đạn và sự tiêu diệt, nhưng trên hết tất cả là lòng yêu Tổ Quốc nồng nàn, yêu dân tộc đến chấp nhận hy sinh thân mình một cách bình thản, trong khi chẳng biết là sau khi mình chết đi rồi, quê hương mình có được giải phóng không.
Trở lại lịch sử Việt, từ hơn 4000 năm trước, đã bao lần giải đất nhỏ bé này phải chứng kiến máu đổ, xương tan, đầu một nơi, thân một nẻo. Đã biết bao thế kỷ, dân tộc hiếu hòa này đã phải vùng lên, đuổi quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi, cho dù núi phải lở, sông phải cạn, nhà cửa ruộng vườn phải tiêu tan, gia đình phải ly tán. Nếu có thể đếm được những thân xác anh hùng Nam, Nữ, các bậc Trưởng Thượng, các thiếu niên đã vùi thây trong lòng đất vì cuộc chiến bảo vệ giang sơn, từ khi lập quốc đến nay thì có lẽ phải đến con số hàng trăm triệu. Rồi đến trận chiến Nam Bắc Phân Tranh, Trịnh Nguyễn, số binh sĩ, quan tướng tử trận cũng không nhỏ. Và, trong cuộc giao tranh, miền Nam Cộng Hòa, và miền Bắc Cộng Sản từ năm 1954 đến nay, do miền Bắc khởi xướng, cũng đã làm dân số Việt Nam mất đi hơn 2 triệu người, miền Bắc hy sinh hơn 1 triệu rưỡi Bộ Đội, chưa kể vài trăm ngàn du kích và thanh niên xung phong đã bỏ mạng âm thầm trong rừng sâu núi thẳm, không chỉ do bom đạn mà còn vì bệnh tật, thiếu ăn, hoặc do nhiều nguyên nhân khác. Trong khi đó, miền Nam hy sinh gần 600 ngàn quân nhân và cảnh sát, không kể số Nghĩa Quân, Nhân Dân Tự Vệ, Xây Dựng Nông Thôn, và các nhân viên hành chính xã ấp bị Việt Cộng thủ tiêu.
Sau 1975, với con số hơn 100 ngàn Sĩ Quan và viên chức cao cấp bị bỏ tù trong các trại trừng giới dưới cái tên mới là Trại Cải Tạo, thì lại thêm hàng chục ngàn người tù lương tâm này hy sinh vì bị bắn bỏ, bị bệnh mà không được điều trị, bị chết đói, hay vị bị nhốt cùm trong hầm sâu, ngục tối chỉ có dán, kiến, mục nát, ẩm ướt, giòi bọ và vi trùng.
Nhưng, tác hại của những cuộc chiến bảo vệ đất nước, nếu chỉ nói đến con số tử vong, thương tật như trên, thì chưa đủ vì những vết đau tinh thần mới là khủng khiếp, đè nặng trên tâm trí, tinh thần những nạn nhân của cuộc chiến mãi mãi không thể phai nhạt. Những người vợ góa, những đứa con thơ, những bà mẹ, những ông bố, anh chị em của các quân nhân ra mặt trận.. là những người đau đớn nhất, vì người chết thì đã chết rồi, còn lại người thân mang theo nỗi nhức nhối khôn nguôi. Đã là con người, ai cũng sợ chiến tranh, sợ tranh đấu, sợ chết, sợ ở tù. Vậy, tới đây, một câu hỏi đặt ra: Tại sao từ năm 1975 đến nay, trên giải đất từng được mệnh danh là “đất Rồng Tiên” này, vẫn có những chiến sĩ dũng cảm tiến lên, già, trẻ, thanh niên nam nữ, học sinh, sinh viên, tu sĩ, nông dân… mặc dù tay không còn cầm vũ khí nữa, mà chỉ ngẩng cao đầu, hiên ngang tiến về phía lực lượng khổng lồ của những kẻ đằng đằng sát khí, có súng, đạn, còng số 8 và nhà giam, để rồi chấp nhận những bản án bất công và vô lý dành cho những người can đảm ấy, tệ hơn nữa là sự tra tấn, hành hạ cho đến chết trong tù?
Tại sao vậy?
Chỉ có một câu trả lời duy nhất: TÌNH YÊU ĐẤT NƯỚC! Trong trái tim của những con người dũng cảm ấy, dù chỉ là một học sinh 18 tuổi, hay một cô sinh viên mới vào ngưỡng cửa đại học, tu sĩ Phật Giáo, Công Giáo, Mục Sư, Cư sĩ Cao Đài, một tín đồ Hòa Hảo hiền lành, một nông dân, suốt đời cầy sâu cuốc bẫm, đặc biệt hơn nữa là cả những người đã từng là Đảng Viên Cộng Sản, Sĩ quan cao cấp Quân Đội Nhân Dân, Giám Đốc Trường Đảng, Huyện Ủy, Bí Thư, Giáo Sư, Nhà Văn Nhân Dân, Nghệ Sĩ Nhân Dân… luôn có Tình Yêu Nước nồng nàn, cao vời, vượt hơn cả giá trị sinh mạng mình. Tình yêu nước, trong tim họ, lúc nào cũng cháy đỏ khiến họ quên tình yêu cá nhân, trai gái và cha mẹ; quên hạnh phúc lứa đôi, niềm vui tốt nghiệp, hạnh phúc giảng đạo, hay xum vầy bên luống rau, vườn cải. Họ chấp nhận từ bỏ những đặc quyền, đặc lợi của một đảng viên, của Sĩ Quan Quân Đội Nhân Dân, Giám Đốc, Bí thư, Đại úy Y Sĩ Công An, Nhà Báo Nhân Dân huy hoàng quyền lợi, vung tay một cái là mọi người chung quanh răm rắp cúi đầu…chỉ vì trong tim họ, vẫn còn Tình Yêu Nước chân chính.
So sánh với các cuộc chiến cách mạng của các dân tộc Âu Châu dưới quyền thống trị của Đức Quốc Xã, thì cuộc đấu tranh để bảo vệ sự vẹn toàn Tổ Quốc Việt Nam, còn cam go hơn nhiều. Vì, khi Đức Quốc thống trị một phần lớn Châu Âu, các chính quyền bù nhìn sở tại cũng còn chút đỉnh lương tâm, không đàn áp mạnh mẽ những người cách mạng, mà vẫn lén lút tìm cách giúp đỡ các anh hùng, cho nên mới có sự vùng lên của Châu Âu phối hợp với Đồng Minh mà làm tan chế độ Đức Quốc Xã. Còn ở Việt Nam hiện tại, “chính phủ bù nhìn” do Đảng Cộng Sản cầm đầu đã ngang nhiên hiện thân là nhóm nô lệ Tầu, nên cho dù “ông Chủ Lớn” từ Bắc Kinh chưa ra lệnh, đã vội vàng bắt nhốt các anh hùng dám nói lên lời Yêu Nước. Chỉ một lời “Tầu Khựa cút khỏi biển Đông” và “Đảng Cộng Sản Việt Nam bán nước”, viết bằng máu từ trái tim của Phương Uyên, người nữ sinh viên nhỏ bé, xinh xắn như thiên thần, đã làm cho cả chế độ hoảng sợ, vội vã nhốt em với bản án gần chục năm tù. Chỉ một lời “Tôi yêu nước, tôi chỉ chống Đảng Cộng Sản” của Nguyên Kha cũng làm em chung số phận với Phương Uyên, với Phạm Thanh Nghiên, với Việt Khang, với Lê Thị Công Nhân, với nhóm các thanh niên Công Giáo khác… Ngoài ra còn biết bao tâm hồn nhiệt huyết khác như Huỳnh Thục Vy, như Nguyễn Hoàng Vi, Mẹ Nấm, Bùi Thị Minh Hằng, Điếu Cầy, Tạ Phong Tần, Đoàn Văn Diên, Lê Trần Luật, Cù Huy Hà Vũ, Nguyễn Tiến Trung, Trần Huỳnh Duy Thức, Lê Thăng Long, Lê Thị Kim Thu, Mai Thị Dung… đã bị bắt nhốt, bị hành hạ, làm nhục, bị lột quần áo, bị xâm phạm thân thể một cách cực kỳ vô giáo dục, bị bỏ đói, bệnh không chữa…chỉ vì hai chữ “Yêu Nước!”
Ôi! Những trái tim ấy mới vĩ đại làm sao? Cao quý làm sao? Những trái tim Việt Nam chân chính!
Còn, những kẻ có mắt như mù, có óc như ngu, có miệng như câm.. của cái gọi là “chính phủ bù nhìn” kia thì dứt khoát là những kẻ không tim. Vì nếu có một quả thịt gọi là trái tim, thì nhất định phải biết điều đơn giản rằng: Tổ Quốc Việt Nam do Tổ Tiên hy sinh biết bao xương máu, thây chất như núi, máu chẩy đầy sông, không thể, vì vinh quang, phú quý, lên xe xuống ngựa, vì vài triệu đô la, vì gái đẹp, rượu ngon, vì các căn biệt thự mênh mông, vì sự quỳ gối cúi đầu của những tên hầu cận cũng là những tên không tim, óc.. mà sẵn sàng bán cả giang sơn cho giặc! Nhìn lại bản đồ hiện tại, chúng phải biết rằng tình hình đất nước đã thành một tỉnh của Tầu Khựa rồi.
Miền Bắc: sau khi bị Tầu Khựa lấn chiếm sâu vào cả vài ngàn cây số, thì 15 tỉnh đầu nguồn tiếp nối cũng được công khai bán luôn. Miền Trung: ruột gan của đất nước cũng bị Tầu Khựa chiếm vài ngàn cây số làm giang sơn riêng dưới danh nghĩa là khai thác Bô xít. Lộ trình chạy dọc Bắc Nam: được tặng cho Tầu Khựa làm đường, khống chế hai bên lộ. Còn biển Đông: Tầu Khựa vẽ đường lưỡi bò, ngang nhiên bắn, giết, bắt tầu thuyền của ngư dân. Kinh Tế: Tầu Khựa cho hàng dỏm, hàng độc sang tràn ngập đất nước, vừa phá kinh tế vừa giết dần dân chúng bằng độc dược. Nhục nhã hơn hết là về chính trị: TẤT CẢ NHỮNG AI NÓI LỜI YÊU NƯỚC, CHỐNG TẦU KHỰA ĐỀU BỊ BẮT NHỐT VỘI VÃ VỚI BẢN ÁN TỐI THIẾU 5 NĂM TÙ ĐẾN 16 NĂM TÙ KHỔ SAI.
Như thế, làm sao mà nói cái “chính phủ bù nhìn” này gồm những “con người” có “tim” được?
Không, chúng chỉ là một lũ nô lệ khổng lồ không tim, không phải con dân Việt Nam, chưa từng học lịch sử Viêt Nam, và nếu có hình dạng bên ngoài giống người Viêt Nam, chúng chỉ là những đứa con hoang của Tầu Khựa mà thôi.
Chu Tất Tiến
Ghi Chú:
-Lời Vua Lê Thánh Tông:
Kẻ nào dám dâng một thước đất cho giặc sẽ bị tội tru di.
-Lời Vua Trần Nhân Tông:
“Các người chớ quên, chính nước lớn mới làm những điều bậy bạ, trái đạo.
Vì rằng họ cho mình cái quyền nói một đường làm một nẻo.
Cho nên cái hoạ lâu đời của ta là hoạ nước Tàu.
Chớ coi thường chuyện vụn vặt xảy ra trên biên ải.
Các việc trên, khiến ta nghĩ tới chuyện khác lớn hơn.
Tức là họ không tôn trọng biên giới qui ước.
Cứ luôn luôn đặt ra những cái cớ để tranh chấp.
Không thôn tính được ta, thì gậm nhấm ta.
Họ gậm nhấm đất đai của ta, lâu dần họ sẽ biến giang san của ta
từ cái tổ đại bàng thành cái tổ chim chích.
Vậy nên các người phải nhớ lời ta dặn:
“Một tấc đất của Tiền nhân để lại,
cũng không được để lọt vào tay kẻ khác”.
Ta cũng để lời nhắn nhủ đó như một lời di chúc cho muôn đời con cháu”.