Việt nam có một ông già
Râu dài, tóc bạc tên là Chí Minh
Ông hay uống rượu một mình
Khi buồn lại rủ Trường Chinh uống cùng
Say sưa ông nói lung tung:
Việt Nam mình sẽ sánh cùng năm châu
Này ông, chuyện ấy còn lâu!!!
Câu ca dao nêu trên có lẽ được sáng tác và lưu hành tại miền Bắc từ ngày ông Hồ Chí Minh còn có thể ngồi lai rai uống rượu và ăn nói lung tung, tức là trước cái ngày ông được nhân dân ca tụng bằng hai câu ca dao khác cũng chẳng kém mùi “phản động”: “bác Hồ ta thật vẻ vang, đang từ khỏe mạnh chuyển sang… từ trần”.
Phải công nhận tác giả câu ca dao tả bác uống rượu, và cả những người góp phần khẩu truyền câu ca dao, quả là trông xa thấy rộng. Ngay từ bốn, năm thập niên trước, khi đảng cộng sản Việt Nam nói riêng và cộng sản quốc tế nói chung đang làm mưa làm gió trên quả địa cầu, những người dân ấy đã đủ sáng suốt để vỗ vai bác, dù là vỗ vai bằng chữ nghĩa, mà bảo bác rằng “Này ông, chuyện ấy còn lâu!”.
Quả thật, cho đến hôm nay, dưới sự lãnh đạo của cộng sản, chuyện Việt Namcó thể sánh vai cùng cộng đồng nhân loại vẫn còn lâu, lâu lắm. Trong suốt hơn nửa thế kỷ kể từ ngày cai trị miền Bắc và ba thập niên từ lúc cưỡng chiếm miền Nam, cộng sản Việt Nam đã gieo rắc muôn vàn tang thương cho dân tộc. Biết bao tiếng kêu đau đớn và phẫn uất của nhân dân đã vang lên trong suốt chiều dài lịch sử này. Trong số ấy, nhiều tiếng kêu đã cô đọng thành những câu ca dao thật độc đáo.
Tự ngàn xưa, cổ nhân đã nhận định là muốn tìm hiểu bản chất một chế độ thì chỉ cần xét tinh thần của người dân sống trong chế độ. Tuy nhiên, làm thế nào để biết được tinh thần người dân? Để trả lời câu hỏi, các cụ dậy rằng “dễ lắm, tinh thần người dân luôn luôn được phản ảnh qua thơ và nhạc lưu truyền trong dân gian”. Cũng vì vậy mà cụ Khổng đã bảo “thanh âm chí đạo dữ chính thông hỹ”, tức là “đạo thanh âm tương thông với chính trị”, và cụ nói rõ rằng “thơ nhạc gốc ở tình cảm, mà tình cảm gốc ở chính trị”. Từ quan niệm này, cụ đã san định Kinh Thi, gồm hơn ba trăm bài thơ mà đa số là những bài thơ “quốc phong”, tức thơ của dân gian, về đời vua Văn nhà Chu (1186 đến 1135 trước Tây Lịch) để mô tả xu hướng chính trị và luân lý của xã hội thời bấy giờ.
Hôm nay, 30 năm sau ngày miền Nam đổi chủ, bắt chước cổ nhân, người viết xin dùng những câu ca dao được lưu truyền tại Việt Nam kể từ biến cố tháng tư năm 75 để minh họa bức tranh xã hội chủ nghĩa và tâm trạng người dân trong suốt 30 năm qua. Trong số những câu ca dao này, có những câu ta thán đầy thê lương ảo não, có những câu trào phúng “bề ngoài cười nụ, bề trong khóc thầm”, có những câu châm biếm chua cay đôi khi trở thành tục tĩu, và có cả những tiếng mắng chửi vô cùng hằn học. Có thể nói tất cả những câu ca dao ấy là một hình thức phản kháng, một thứ vũ khí đấu tranh của người dân thấp cổ bé miệng trước sự áp bức của bạo quyền.
Cũng xin nói thêm, người viết rời quê hương trong ngày cuối cùng của cuộc chiến và cho đến hôm nay, sau 30 năm tỵ nạn nơi đất khách, vẫn chưa về thăm lại quê nhà để đi “thực tế” (mượn tạm ngôn từ của cộng sản) một chuyến. Vì vậy, những câu ca dao trích dẫn trong bài là những câu hoặc đã sưu tầm được trên sách báo và trên mạng lưới điện toán, hoặc do những người đã từng sống nhiều năm với cộng sản kể lại khi đến định cư tại xứ người, hoặc do các thân hữu về thăm Việt Nam mang sang làm “quà lưu niệm”.
Đến hôm nay, có lẽ những người di tản đợt đầu tiên từ gần 30 năm trước vẫn còn nhớ đôi câu thơ phát xuất tại miền Nam sau ngày Sài Gòn đổi chủ. Vâng, chúng ta đã nghe nhắc đến đôi câu ấy trong những năm tháng đầu xa quê hương. Nghe mà dạ bùi ngùi. Nghe mà lòng chua xót:
Nam Kỳ Khởi Nghĩa tiêu Công Lý
Đồng Khởi vùng lên mất Tự Do
Câu thơ đánh dấu sư kiện, tại Sài Gòn, nhà cầm quyền cộng sản đổi tên đường Công Lý thành Nam Kỳ Khởi Nghĩa và đường Tự Do thành Đồng Khởi. Ở một ý nghĩa khác, công lý đã chết tức tưởi và tự do thì đã vội vã ra đi.
Và đôi câu khác cũng được phổ biến khá rộng rãi trên mọi miền đất nước, từ sông Bến Hải đến tận mũi Cà Mau:
Dép râu dẫm nát đời son trẻ
Nón tai bèo che khuất nẻo tương lai
Đau đớn thay:
Chim xa rừng còn thương cây nhớ cội
Việt Cộng về thành làm tội dân ta
Ba mươi năm bị làm tội làm tình, quãng thời gian dài gấp đôi đoạn đường luân lạc của Thúy Kiều thuở trước. Từ ngày ấy đến hôm nay, bao nhiêu hàng nước mắt đã lăn dài trên gò má người dân cùng khổ.
Đổi tiền và học tập cải tạo
Một thời gian ngắn sau khi tống giam hàng trăm ngàn quân nhân công chức chế độ Việt Nam Cộng Hòa vào cái gọi là trại cải tạo, nhà cầm quyền đã ban lệnh đổi tiền để tước đoạt tài sản người dân miền Nam. Có lẽ những người dân miền Nam từng sống dưới chế độ cộng sản còn nhớ là chỉ trong vòng 10 năm kể từ ngày chiếm miền Nam, cộng sản đã ba lần đổi tiền. Lần thứ nhất vào ngày 2 tháng 9 năm 1975 theo tỷ giá quy định là 500 đồng Việt Nam Cộng Hòa đổi lấy một đồng Giải Phóng, có nghĩa là năm đồng tiền cũ đổi lấy một xu tiền mới. Thêm nữa, mỗi hộ, tức mỗi gia đình, chỉ được đổi tối đa 200 đồng tiền mới, tức 100.000 đồng tiền cũ bất kể hộ có bao nhiêu nhân khẩu. Có nhiều người, ngay sau khi đổi tiền, cầm những tờ giấy bạc mới đứng khóc nức nở, khóc mùi mẫn nơi vệ đường.
Vì vậy, người dân có câu ca dao:
Năm đồng đổi lấy một xu
Thằng khôn đi học, thằng ngu làm thày
“Đi học” ở đây tức là bị học tập cải tạo còn “thày” tức cán bộ cộng sản phụ trách giảng dậy tại các trại cải tạo.
Cả nước thiếu ăn
Sau khi chiếm miền Nam, cộng sản xóa bỏ quyền tư hữu, áp đặt chế độ bao cấp như tại miền Bắc và phát tem phiếu để người dân xếp hàng mua nhu yếu phẩm tại mậu dịch, mà nhu yếu phẩm thì lúc có lúc không. Lúc bấy giờ dân miền Nam mới thấm thía hai câu nhại Kiều của người miền Bắc từ đầu thập niên 60:
Bắt phanh trần phải phanh trần
Cho may ô mới được phần may ô
(nguyên văn: “bắt phong trần phải phong trần, cho thanh cao mới được phần thanh cao“).
Và
Từ khi ta có Bác Hồ
Nhân dân chẳng được ăn no ngày nào
Vài tháng sau, vật giá gia tăng một mức khủng khiếp. Rau muống là thức ăn chính của người dân. Có câu ca dao chơi chữ khá độc đáo mô tả tình trạng này:
Lương chồng, lương vợ, lương con
Đi ba buổi chợ chỉ còn lương tâm
Lương tâm đem chặt ra hầm
Với rau muống luộc khen thầm là ngon
Vài tháng sau nữa, lạm phát trở thành “siêu phi mã”. Lương tháng trung bình một công nhân viên khoảng 60 đồng tiền mới, chỉ mua được 30 bó rau muống. Người dân bèn réo tên ba lãnh tụ cao cấp nhất của đảng:
Anh Đồng, anh Duẩn, anh Chinh
Ba anh có biết dân tình cho không?
Rau muống nửa bó một đồng
Con ăn bố nhịn, đau lòng thằng dân
Rồi dân không còn đủ gạo để ăn với rau muống vì nhà cầm quyền thu gom gạo để trả nợ chiến tranh. Ngoại trừ những cán bộ trung cấp và cao cấp trong đảng, gần như cả nước đã phải nhai sắn thay cơm:
Ai sinh ra cái củ mì?
Hỏi : Để làm gì? Đáp : Để mà ăn!
Nước nhà mãi mãi khó khăn
Dân mình mãi mãi phải ăn củ mì
Ăn sắn, ăn mì, và đi dự các buổi học tập tại địa phương để hoan hô đảng và đả đảo Mỹ Ngụy là thời biểu bó buộc của người dân miền Nam lúc ấy:
Dân đói mà đảng thì no
Sức đâu ủng hộ, hoan hô suốt ngày
Đảng béo mà dân thì gầy
Độn bắp, độn sắn biết ngày nào thôi?
Chỉ đôi ba năm sau, ngô sắn cũng dần cạn, cộng sản Việt Nam cầu viện các đàn anh Đông Âu và được đàn anh viện trợ hữu nghị cho một món thực phẩm họ thường dùng cho ngựa ăn. Đó là bo bo, thứ thực phẩm được nhà nước cường điệu gọi là "cao lương". Trong suốt một thời gian dài cả nước vêu mồm ra mà thi nhau nhai thứ cao lương này. Dù có ninh kỹ và nhai kỹ đến đâu thì bo bo vẫn là thứ hạt bao tử con người không thể tiêu hóa nổi, ăn thế nào thì ra thế nấy. Bởi vậy người dân có ca dao rằng:
Hoan hô độc lập tự do
Để cho tớ nhá bo bo sái hàm
và:
Nhân dân thì chẳng cần lo
Nhà nước lo sẵn bo bo mỗi ngày
Hãy chăm tay cấy tay cầy
Nhịn ăn nhịn mặc chờ ngày vinh quang
Khi truyền miệng câu ca dao nêu trên, người dân miền Nam hóm hỉnh đọc trại chữ "l" thành "n" để chế nhạo các cán bộ miền Bắc phát âm sai hai chữ này. Vì vậy câu ca dao bỗng dưng mang một ý nghĩa khá khôi hài:
Nhân dân thì chẳng cần "no"
Nhà nước "no" sẵn bo bo mỗi ngày
Mùa hè năm 1980, nhằm mục đích tuyên truyền, cộng sản Việt Nam đã khẩn cầu Liên Xô cho Phạm Tuân làm “lơ” phi thuyền, tháp tùng phi hành gia Victor Gorbatco trong chuyến bay vào vũ trụ trên con tầu Liên Hợp. Lúc bấy giờ đang đói vêu vì thiếu ăn, nhân dân bèn có câu:
Một thằng lên vũ trụ
Trăm thằng đi Mút Cu (Moscow)
Nghìn thằng chè chén lu bù
Để dân bảy mươi triệu đói thò cu ra ngoài
Có người tức quá nên hoạnh họe:
Nhân dân thiếu gạo thiếu mì
Mày vào vũ trụ làm gì hở Tuân???
Và người khác thực tế hơn:
Ai lên vũ trụ thì lên
Còn tôi ở lại ghi tên mua mì
Thiếu mặc
Tình hình miền Nam trong những năm đầu tiên bị chiếm đóng thật thê thảm. Người dân đã không đủ ăn thì làm sao đủ mặc. Mỗi năm, một người chỉ được mua vài thước vải xấu theo giá chính thức từ mậu dịch. Bởi vậy, dân gian có câu ca dao cười ra nước mắt:
Một năm hai thước vải thô
Nếu đem may áo cụ Hồ ló ra
May áo thì hở lá đa
Chị em thiếu vải hóa ra lõa lồ
Vội đem cất ảnh bác Hồ
Sợ rằng bác thấy tô hô bác thèm
và:
Có áo mà chẳng có quần
Lấy gì hạnh phúc hỡi dân cụ Hồ?
Có đói mà chẳng có no
Lấy gì độc lập, tự do hỡi người?
Trong những nạn nhân của chế độ, có cả những cựu cán binh cộng sản hưu trí, đặc biệt là những cán bộ tập kết miền Nam. Đó là những múi chanh đã bị đảng vắt hết nước. Vì vậy, văn học dân gian có bài thơ nực cười nêu sau để diễn tả tình trạng bi đát của một số sĩ quan cộng sản từ cấp đại tá trở xuống đã được đảng cho phục viên:
Đầu đường đại tá vá xe
Giữa đường thượng tá bán chè đậu đen
Cuối đường trung tá rao kem
Xa xa thiếu tá thổi kèn đám ma
Đại úy thì đi buôn gà
Thượng uý ở nhà vỡ đất thay trâu
Hỏi trung, thiếu uý đi đâu?
Ba lô hàng lậu xuôi tầu Bắc Nam !!!
Có những người còn ở trong hoàn cảnh nghiệt ngã hơn:
Ngày xưa chống Mỹ chống Tây
Ngày nay chống gậy ăn mày áo cơm
Thiếu đủ thứ
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, không những người dân thiếu ăn thiếu mặc mà là thiếu đủ thứ, từ các nhu yếu phẩm cho đến tự do và hạnh phúc:
Ở với Hồ Chí Minh
Cây đinh phải đăng ký
Trái bí cũng sắp hàng
Khoai lang cần tem phiếu
Thuốc điếu phải mua bông
Lấy chồng nên cai đẻ
Bán lẻ chạy công an
Lang thang đi cải tạo
Hết gạo ăn bo bo
Học trò không có tập
Độc Lập với Tự Do
Nằm co mà Hạnh Phúc!
Tuy đã biến cả nước thành một nhà tù khổng lồ, đảng vẫn hạn chế sự đi lại của người dân. Muốn đi từ tỉnh này sang tỉnh khác, người dân phải xin giấy phép của chính quyền địa phương:
Mang danh Dân Chủ Cộng Hòa
Đi ra khỏi tỉnh phải qua cửa quyền
Xuất trình giấy phép liên miên
Chứng từ thị thực ở miền nào qua
Tình trạng này phát sinh một bài ca dao trào phúng, được phổ biến khắp các miền đất nước:
Trăm năm trong cõi người ta
Ở đâu cũng được đi ra đi vào
Xa xôi như xứ Bồ Đào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Đen đủi như Ăng Gô La
Người ta cũng được đi ra đi vào
Chậm tiến như ở nước Lào
Người ta cũng được đi vào đi ra
Chỉ riêng có ở nước ta
Người ta không được đi ra đi vào
Kinh tế mới và thanh niên xung phong
Với sự hiểu biết thiển cận về kinh tế cộng thêm một ý thức hệ bệnh hoạn, năm 1976, các lãnh tụ của đảng cho thành lập những khu kinh tế mới tại những vùng rừng thiêng nước độc. Chỉ nội trong một năm, nhà cầm quyền đã đầy khoảng 1,4 triệu người dân miền Nam đến sinh sống tại những khu hoang vu này, trong số đó có 700.000 dân Sài Gòn, hầu hết thuộc gia đình quân nhân, công chức chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Bài ca dao dưới đây thuật lại hoàn cảnh đau lòng của những người bị lưu đầy lúc bấy giờ:
Đuổi dân ra khỏi cửa nhà
Bắt đi kinh tế thật là xót xa
Không sao sống được cho qua
Nên đành lại phải trở ra Sài Gòn
Chẳng ai giúp đỡ chăm nom
Cùng nhau vất vưởng, lom khom vỉa hè
Màn sương chiếu đất phủ che
Sinh ra bệnh tật khò khè ốm đau
Nhưng mà có sống được đâu
Bộ đội kéo đến hàng xâu xúc liền
Chúng đem bỏ tại Tam Biên
Rừng sâu núi thẳm oan khiên buộc vào
Sáu ngàn nhân mạng năm nào
Thảy đều chết đói, biết bao nhục hình
Tháng 3 năm 1976, nhà cầm quyền phát động phong trào thanh niên xung phong để cưỡng ép sinh viên học sinh về miền quê công tác, chủ yếu là đào kinh. Có một câu ca dao khá ngộ nghĩnh, được truyền bá trong các đoàn thanh niên xung phong miền Nam lúc bấy giờ. Câu ca dao tuy mắng mỏ tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nhưng gói ghém sự tiếc nuối những ngày tháng cũ:
Mồ cha thằng Thiệu rời dinh
Để tao ở lại đào kinh mỗi ngày
Chuyện dài Hợp Tác Xã
Sau khi chiếm miền Nam, cộng sản truất quyền tư hữu đất đai và các phương tiện sản xuất khỏi tay nông dân qua hình thức hợp tác xã tập thể. Với chính sách kinh tế này, nhà nước kiểm soát việc phân phối thực phẩm bằng cách thu mua và ấn định thuế khóa.
Câu chuyện nêu sau biểu lộ sự vô trách nhiệm của giới lãnh đạo đảng:
Vào thập niên 1990, nhà nước thúc dục người dân, nhất là dân miền Trung, bỏ trồng lúa để trồng mía làm đường. Tuy nhiên, sau khi ông Fidel Castro đến thăm Việt Nam, các nhà lãnh đạo đảng hứa giúp Cuba bằng cách nhập khẩu đường mía nước này vào thị trường Việt Nam. Sau đó, nhà nước thực hiện lời hứa, nhập khẩu đường Cuba suốt mấy năm liền. Hậu quả là nông dân trồng mía bị sạt nghiệp vì số mía thu hoạch phải bán tống bán tháo hoặc vứt bỏ. Vì vậy, người dân phẫn uất truyền miệng bài ca dao sau:
Bắt trồng mà chẳng thu mua
Tại sao đảng nỡ dối lừa nhân dân?
Tiền cầy, tiền giống, tiền phân
Một trăm thứ thuế đổ thân gầy gò
Dân đói mà đảng thì no
Kêu trời, kêu đất, kêu Hồ chí Minh!
Không những chỉ bị lỗ nặng vì trồng mía, người nông dân còn bị lao đao nhiều lần khác vì phải nghe lời nhà nước:
Trồng mía, trồng ớt, trồng hành
Vì nghe lời đảng mà thành bể niêu
Trồng tiêu rồi lại trồng điều
Vì nghe lời đảng mà niêu tan tành
Năm 1992, trong một bài viết tố cáo những sai lầm của cộng sản Việt Nam, thượng tọa Thích Quảng Độ thuật lại một câu chuyện thú vị ngài đã chứng kiến trong thời gian 10 năm bị quản thúc tại xã Vũ Đoài, tỉnh Thái Bình, từ 1982 đến 1992. Lúc bấy giờ, các cụ già tại địa phương này bị xung vào đội trồng cây của hợp tác xã để trồng cây lấy điểm, cứ trồng năm cây thì được một điểm, đủ để đổi lấy một lạng thóc. Khổ nỗi các cụ tuổi cao, sức kém, đã trồng không kỹ lại thiếu chăm sóc vì “cha chung không ai khóc”, nên cây trồng chỉ vài tuần sau là úa héo. Các em bé chăn trâu cho hợp tác xã mới làm vè trêu các cụ:
Hoan hô các cụ trồng cây
Mười cây chết chín, một cây gật gù
Nghe các cháu trêu, các cụ bèn phản pháo lại:
Các cháu có mắt như mù
Mười cây chết tiệt, gật gù ở đâu?
Chỉ một thời gian ngắn sau, hai câu đối đáp hài hước nêu trên đã trở thành ca dao thời đại mới.
Ấy thế mà cứ vài ba tháng, đảng lại phát động chiến dịch thi đua cho các hợp tác xã và thúc dục người dân làm việc bằng hai bằng ba theo lời khuyên của ông Hồ từ những ngày còn chiến tranh. Người dân bực quá nên có câu:
Thi đua làm việc bằng hai
Để cho cán bộ mua đài mua xe
Thi đua làm việc bằng ba
Để cho cán bộ xây nhà lát sân
Có người còn nhạo báng:
Thi đua ta quyết tiến lên
Tiến lên ta quyết tiến lên hàng đầu
Hàng đầu... rồi... tiến... về... đâu?
Nhiều phụ nữ đã từng trải qua lắm gian nan, khổ cực với hợp tác xã mà chẳng “ăn cái giải rút gì”, tức quá bèn văng tục:
Đi làm hợp tác hợp te
Không đủ miếng giẻ mà che cái l..
Xã hội bất công
Điều nghịch lý là trong xã hội chủ nghĩa, một mặt đảng tuyên bố đấu tranh cho công bằng xã hội thì mặt khác, các nhà lãnh đạo lại tự cho mình hưởng những quyền lợi đặc biệt. Tại Hà Nội, người dân chua chát truyền khẩu những câu ca dao sau:
Tôn Đản là chợ vua, quan
Vân Hồ là chợ những gian, nịnh thần
Đồng Xuân là chợ thương nhân
Vỉa hè là chợ "nhân dân anh hùng"
Lãnh đạo giả dối
Có thể nói, trong hơn 50 năm qua, cộng sản Việt Nam cai trị đất nước bằng các thủ đoạn lừa bịp và dối trá. Trong một bài viết với nhan đề Nhật Ký Rồng Rắn được phổ biến ra hải ngoại đầu năm 2001, ông Trần Độ, cựu trung tướng quân đội Nhân Dân của cộng sản, đã tố cáo thủ đoạn này qua những lời lẽ sau:
“Nói thì ‘dân chủ, vì dân’ mà làm thì chuyên chính phát xít. Cái đặc điểm đó cũng có nghĩa là nói dối, nói láo, lừa bịp, trò hề, ‘nói vậy mà không phải vậy’.
Suốt ngày đóng trò, cả năm đóng trò. Ở đâu cũng thấy các vai hề, ở đâu cũng thấy các trò lừa bịp. Suốt ngày đêm, suốt năm tháng cũng lúc nào cũng chỉ nghe thấy những lời nói dối, nói lừa.
Chế độ này bắt mọi người phải đóng trò, bắt tất cả trẻ con phải đóng trò, bắt nhiều người già phải đóng trò
Đặc điểm này đã góp phần quyết định vào việc tạo ra và hình thành một xã hội dối lừa: lãnh đạo dối lừa, đảng dối lừa”.
Tại Việt Nam, một trong những cơ quan mang tiếng nhất về chuyện có nói thành không, không nói ra có là nha khí tượng:
Bảo nắng mà trời lại mưa
Mấy thằng khí tượng đoán bừa hại tao
Trời cho một trận mưa rào
Mấy thằng khí tượng làm tao ướt rồi
Ấy thế mà theo người dân, nghệ thuật nói khoác của nha khí tượng còn kém xa những lãnh tụ cộng sản. Dưới triều đại Lê Duẩn, người có bí danh “Anh Ba”, thì kẻ đoạt quán quân về nói khoác lại chính là đồng chí tổng bí thư. Vì vậy, dân gian phát sinh ra câu ví von:
Thứ nhất anh Ba, nhì Nha Khí Tượng
Câu ca dao thời đại sau đây đã nói lên bản chất dối trá và hợm hĩnh của đảng:
Mất mùa là bởi thiên tai
Được mùa là bởi thiên tài đảng ta
Bỏ nước ra đi
Có thể nói người Việt Nam là người vô cùng quyến luyến với quê cha đất tổ. Tuy nhiên, khi miền Nam bị đặt dưới sự cai trị của cộng sản, hàng triệu người dân đã buộc lòng phải bỏ nước ra đi. Chồng lìa vợ, con xa mẹ xa cha. Trong những năm tháng ấy, kể sao cho xiết những đau đớn của sinh ly, của “lệ rơi thấm đá”.
Thuở trước, kho tàng ca dao của dân tộc có câu:
Có con mà gả chồng gần
Có bát canh cần nó cũng mang qua
Có con mà gả chồng xa
Một là mất giỗ, hai là mất con
Khi phong trào vượt biên bùng nổ vào cuối thập niên 1970, dân miền Nam đã cải biên bài ca dao nêu trên thành những câu thật dí dỏm:
Có con mà gả chồng gần
Nửa đêm xe đạp mang phần cho cha
Có con mà gả chồng xa
Tháng tháng nó gửi đô la kìn kìn
Lúc bấy giờ, người dân bảo nhau câu “cái cột đèn nếu nó biết đi, nó cũng vượt biên, chứ đừng nói con người”. Đâu đâu, người ta cũng bàn về chuyện vượt biên. Ngay cả những cặp tình nhân, hôm nay còn gặp nhau, nhưng ngày mai có thể sẽ ngàn trùng cách biệt. Có một bài ca dao khá văn chương, mở đầu bằng hai câu trong bài Phong Kiều Dạ Bạc của Trương Kế, để diễn tả tâm trạng những kẻ yêu nhau thuở ấy:
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Canh khuya thao thức mạn thuyền
Biết người quân tử vượt biên chốn nào?
Đất nước tang thương, kẻ ở người đi, lòng người ly tán, tất cả tội lỗi dĩ nhiên phát xuất từ bác Hồ, như câu ca dao thời đại:
Bác Hồ chết phải giờ trùng
Nên bầy con cháu dở khùng dở điên
Thằng tỉnh thì đã vượt biên
Những đứa ở lại chẳng điên cũng khùng
Đổi mới
Trước cảnh suy thoái trầm trọng sau nhiều năm rập khuôn một cách máy móc mô hình xã hội chủ nghĩa theo Liên Xô; nên để sống còn, đại hội VI của đảng năm 1986 phải đưa ra chính sách đổi mới, bãi bỏ chế độ bao cấp, và chấp nhận một nền kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế thì hô hào đổi mới nhưng chính trị thì dĩ nhiên vẫn là chuyện độc quyền của đảng. Cụm từ “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” bỗng một sớm một chiều được phát sinh.
Lúc bấy giờ Đỗ Mười là tổng bí thư đảng, Lê Đức Anh là chủ tịch nước, còn Võ Văn Kiệt là thủ tướng. Vì vậy, người dân kháo nhau rằng:
Ông Anh, ông Kiệt, ông Mười
Dở khóc, dở cười biết chọn ông nao?
Ông nào, ông nảo, ông nao
Một đồng một cốt làm sao bây giờ?
"Cửa mở", phải có giấy tờ
"Đổi mới" nhìn lại vẫn thờ mấy ông
Đèn cù cứ chạy lòng vòng
Dân chủ cái còng, tự do đói ăn
Hạnh phúc chú cuội cung trăng!
Tham nhũng
Trong lịch sử nhân loại, độc tài về chính trị bao giờ cũng sinh ra tham nhũng. Trước kia niềm mơ ước của một công dân xã hội chủ nghĩa là làm thế nào để đạt được 4Đ, tức là được vào “đảng”, để có thể ký cóp những khoản tham nhũng cùng hối lộ cỏn con mà tậu một chiếc xe “đạp”, một cái “đài” (radio), và một ”đồng hồ” đeo tay (đảng, đạp, đài, đồng). Tuy nhiên, chỉ vài năm sau đổi mới, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dẫn đến sự tham nhũng công khai khiến các đảng viên đang nắm quyền trở thành giới tư bản đỏ với tài sản lên đến hàng triệu mỹ kim. Vì vậy, dân mình có những câu ca dao:
Công nhân, vợ ốm con côi
Lãnh đạo nhà gác, xe hơi bộn bề
Bao giờ cho hết trò hề?
và:
Nhà ai giàu bằng nhà cán bộ?
Hộ nào sang bằng hộ đảng viên?
Dân tình thất đảo bát điên
Đảng viên mặc sức vung tiền vui chơi
Tuy sở hữu những tài sản kếch sù trong lúc quần chúng còn thiếu cơm thiếu áo, các đảng viên cầm quyền vẫn tiếp tục lải nhải điệp khúc “nhân dân là chủ, đảng là đầy tớ”. Nghe câu ví con này, các “ông chủ” bèn sôi máu lên mà sáng tác bốn câu ca dao sau:
Ai về qua tỉnh Nam Hà
Xem lũ đầy tớ xây nhà bê tông.
Tớ ơi, mày có biết không?
Chúng ông làm chủ mà không bằng mày!
Trước đổi mới, các “ngài đầy tớ” thường chỉ nhận một “thù lao” (hối lộ) khá khiêm nhượng từ những “ông chủ” (rất nghèo). Chẳng hạn như đối với các cán bộ điện lực, điều kiện để các ông mắc điện cho các gia đình ở nông thôn nhiều khi chỉ là một buổi tiệc nhậu có thịt gà thịt lợn:
Muốn cho điện sáng về nhà
Ruột lợn ruột gà phải nối đến nơi
Tuy nhiên, sau đổi mới, các đảng viên cầm quyền khôn ra, chỉ nhận hối lộ bằng các phong bì nhè nhẹ. Bởi vậy dân gian có ca dao rằng:
Phong lan, phong chức, phong bì
Trong ba thứ ấy, thứ gì quý hơn?
Phong lan ngắm mãi cũng buồn
Phong chức thì phải cúi luồn vào ra
Chỉ còn cái phong thứ ba
Mở ra thơm nức, cả nhà cùng vui
Đối với các ông thanh tra của đảng, mỗi khi đến làm việc ở cơ quan hoặc địa phương nào mà được trao tay một chiếc phong bì thì các ông sẽ biến mọi thứ tiêu cực thành tích cực ngay. Chứng kiến tệ trạng này, người dân bèn sáng tác hai câu ca dao với cách chơi chữ cả Việt lẫn Anh đầy nghệ thuật:
Thanh “cha”, thanh mẹ, thanh gì?
Hễ có phong bì thì nó “thanh kiu” (thank you)
Năm 1996, một tờ báo phát hành tại Đà Nẵng đã “in chui” được hai câu ca dao sau đây để nói lên bản chất đảng cộng sản trong thời kỳ đổi mới:
Đảng ta là đảng thần tiên
Đa lô thì được, đa nguyên thì đừng
Khi nói lái, “thần tiên” là “thân tiền” và “đa lô” thành “đô la”. Quả là hai câu độc đáo.
Hiện nay, nấc thang giá trị trong xã hội Việt Nam được định đoạt bởi đồng tiền như bài vè được lưu truyền trong dân gian từ nhiều năm qua:
Tiền là Tiên là Phật
Là sức bật con người
Là nụ cười tuổi trẻ
Là sức khỏe người già
Là cái đà danh vọng
Là cái lọng che thân
Là cán cân công lý
Đồng tiền là… hết ý!
Một chuyện khá khôi hài nói lên tính tráo trở của người cộng sản là trước kia, nhà cầm quyền kết án người vượt biên là Việt gian, là phản bội tổ quốc. Dân vượt biên bị bắt là bị tống vào nhà giam, hoặc bị đầy vào trại cải tạo. Thậm chí, có người còn bị công an xử bắn ngay tại nơi bị bắt. Tuy nhiên, sau đổi mới, đảng đã tha thiết mời gọi Việt kiều về du lịch và bỏ vốn đầu tư tại ViệtNam. Không những thế, đảng còn ví von đồng bào hải ngoại là khúc ruột ngoài ngàn dặm của tổ quốc. Trước sự đổi trắng thay đen này, dân gian bèn có câu:
Ngày đi, đảng gọi “Việt gian”
Ngày về thì đảng chuyển sang “Việt kiều”
Chưa đi: phản động trăm chiều
Đi rồi thành khúc ruột yêu ngàn trùng
Song song với việc chiêu dụ Việt kiều, đảng ngày càng tỏ thái độ lấy lòng Hoa Kỳ để được hưởng lợi lộc kinh tế. Tháng 11 năm 2000, khi nhà nước đang tất bật “lo ngày không đủ tranh thủ lo đêm” để “chiêu đãi” tổng thống Clinton và phái đoàn Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm Việt Nam thì người dân rỉ tai nhau rằng:
Ngày xưa chửi Mỹ hơn người
Ngày nay nịnh Mỹ chẳng ai bằng mình
Xã hội xuống cấp
Có thể nói sách lược kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã soi mòn truyền thống đạo đức của dân tộc một cách trầm trọng. Năm 1996, bà Nguyễn Thị Hằng, thứ trưởng bộ Lao Động, Thương Binh và Xã Hội cho biết cả nước có ít nhất 76.900 gái mại dâm. Tuy nhiên, cũng trong năm ấy, theo lời một viên chức cao cấp trong đảng tiết lộ với báo chí ngoại quốc thì chỉ riêng tại Sài Gòn đã có khoảng 300.000 phụ nữ hành nghề không vốn này, vượt xa số thống kê chính thức của giới cầm quyền. Đến nay, đã gần 9 năm trôi qua, số gái mại dâm tại Việt Nam có lẽ còn tăng cao nhiều hơn nữa?
Trong những năm qua, ca dao tân thời của xã hội chủ nghĩa không hiếm những câu tương tự như câu tả cảnh bến Ninh Kiều ở Cần Thơ như sau:
Chiều chiều trên bến Ninh Kiều
Dưới chân tượng bác, đĩ nhiều hơn dân
Nếu trước năm 1975 tại miền Nam chỉ có một loại dịch vụ “ôm” là bia ôm xuất hiện lác đác một cách bất hợp pháp tai một vài thành phố lớn, thì hiện nay nhan nhản trên khắp các nẻo đường đất nước, ngoài bia ôm, người dân có thể thưởng thức đủ thứ dịch vụ “ôm” hợp với túi tiền từng người như cà phê ôm, chè ôm, cháo ôm, phở ôm, sổ xố ôm, hớt tóc ôm, tắm ôm, xem video ôm, ngủ ôm, câu cá ôm, v.v. Thậm chí có nhiều tiệm may còn tặng thêm món hàng đo quần áo ôm cho các đấng mày râu.
Tuy nhiên, bia ôm vẫn là dịch vụ phổ biến nhất, như câu ca dao nêu sau, nghe đồn được phát xuất từ một quán bia ôm gần Văn Miếu ở Hà Nội, nơi đặt những tấm bia đá khắc tên các ông nghè, tức tiến sĩ thuở xưa:
Trăm năm bia đá cũng mòn
Bia chai cũng vỡ, chỉ còn bia ôm
Nền giáo dục thì xuống cấp một cách thê thảm. Đây là điều hiển nhiên vì nhà giáo là những người bị hất hủi đến cùng cực trong cái gọi là xã hội chủ nghĩa:
Thày giáo lãnh lương ba đồng
Làm sao sống nổi mà không đi thồ
Nhiều thày phải đạp xích lô
Làm sao xây dựng tiền đồ học sinh
và thê thảm hơn:
Cô giáo phải bán bia ôm
Ôm phải học trò, ăn nói sao đây?
Điều đau xót và tủi nhục nhất của dân tộc trong những năm gần đây là dưới sự cai trị của những bộ óc “ưu việt, đỉnh cao trí tuệ”, nhiều phụ nữ miền Nam phải chấp thuận lấy người ngoại quốc, hầu hết là người Đài Loan và Nam Hàn, để có thể thoát cảnh đói nghèo. Tại xứ người, đa số bị đối xử như những nô lệ tình dục. Chứng kiến cảnh đau lòng này, các chàng trai đất Việt đành bùi ngùi than thở:
Tiếc thay cây quế còn soan
Để cho đám mọi Đài Loan nó trèo
và:
Tìm em như thể tìm chim
Chim bay biển Bắc, anh tìm biển Đông
Tìm làm chi để mất công
Đài Loan, Hàn Quốc em dông mất rồi
Châm biếm và chỉ trích lãnh tụ
Là nạn nhân của sự cai trị bạo tàn, người dân, nhất là dân miền Nam, đã phải cậy đến một thứ khí giới đặc biệt để chống lại kẻ mạnh là thi ca trào phúng. Trong suốt 30 năm, nhiều lãnh tụ cộng sản đã trở thành đối tượng để nhân dân “xả xú bắp” bằng ca dao châm biếm. Trong những ông này, ngoại trừ ông Hồ, ba ông bị nhắc đến nhiều nhất là tổng bí thư Lê Duẩn, chủ tịch quốc hội Trường Chinh, và thủ tướng Phạm Văn Đồng, tức những người lãnh đạo cao nhất của đảng trong 10 năm đầu tiên kể từ khi miền Nam thất thủ, thời kỳ bị xem là đen tối nhất của lịch sử dân tộc cận đại.
Với ông Hồ, có khi ca dao là một bài châm biếm về khả năng lãnh đạo:
Trách ai sinh thứ họ Hồ
Để cho cả nước như đồ vất đi
Có khi là một bài mỉa mai về tư cách và đạo đức, như chuyện bác “ăn ốc” xong rồi bắt đàn em “đổ vỏ”:
Bác Hồ đại trí, đại hiền
Chơi Minh Khai chán, gá liền Hồng Phong
Minh Khai phận gái chữ tòng
Bác Hồ sái nhất, Hồng Phong sái nhì
Còn về ba ông Đồng, Duẩn, Chinh thì thoạt đầu là những lời tố cáo như:
Ông Đồng, ông Duẩn, ông Chinh
Vì ba ông ấy, dân mình lầm than
Rồi đến sự căm phẫn:
Trường Chinh, Lê Duẩn, Văn Đồng
Cả ba đồng lòng giết chết con tôi
Cuối cùng là niềm mơ ước:
Trường Chinh, Lê Duẩn, Văn Đồng
Ba thằng cùng béo, vặt lông thằng nào?
Vặt lông cả đám cho tao!
Có một chuyện khá khôi hài xẩy ra trong nội bộ đảng cộng sản vào năm 1983. Lúc bấy giờ đại tướng Võ Nguyên Giáp bị phe Lê Duẩn và Lê Đức Thọ làm nhục, tước hết binh quyền và giao nhiệm vụ phụ trách “sinh đẻ có kế hoạch”. Trước hoàn cảnh dở khóc dở cười của đại tướng, người dân có câu ca dao chế diễu:
Ngày xưa đại tướng cầm quân
Ngày nay đại tướng cầm quần chị em
Còn những chị em… vui tính hơn thì khúc khích rỉ tai nhau mà bảo rằng:
Khi xưa trấn thủ lưu đồn
Bây giờ đại tướng trấn l.. chúng em
Cuối tháng 6 năm 1991, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của đảng bầu ông Đỗ Mười làm tổng bí thư và cử ra một ban chấp hành trung ương đảng gồm 146 ủy viên. Sau đại hội, có mấy ông công dân rỗi việc, mò mẫm sưu tra lý lịch của 146 ngài đỉnh cao trí tuệ này thì cả nước mới hay chỉ 10 phần trăm đạt được thành tích vẻ vang là đã hoàn tất bậc trung học. Đặc biệt, đồng chí tổng bí thư thì hoặc tự bỏ học hoặc bị đuổi học từ năm lớp ba. Bởi vậy, dân gian có câu ca dao khen đồng chí rằng:
Giỏi a đồng chí Đỗ Mười
Lớp ba chưa đỗ đã ngồi bí thư
Một trong những thành tích đáng tủi hổ của cộng sản Việt Nam là ồ ạt xuất khẩu nhân công sang lao động tại xứ người vì không tạo nổi công ăn việc làm cho người dân. Chỉ trong năm 2004, nhà cầm quyền đã đưa gần 70.000 người dân đi làm thuê tại các nước ngoài, hầu hết đến Đài Loan, Nam Hàn, và Mã Lai là những nước có nền kinh tế còn kém Việt Nam thời chưa bị họa cộng sản ở nửa thế kỷ trước. Tại những xí nghiệp thuộc những nước này, người nhân công Việt Nam bị đối xử như những nô lệ của thời đại mới. Dân gian bèn có câu châm biếm:
Vẻ vang thay lãnh tụ ta
Đem dân xuất khẩu bán ra nước ngoài
So sánh với thực dân Pháp thuở xưa, đảng cộng sản Việt Nam hôm nay tệ hại hơn nhiều về thành tích bóc lột nhân dân và chiếm đoạt tài nguyên đất nước:
Ngày xưa giặc Pháp mộ phu
Ngày nay đảng bán dân ngu lấy tiền
Đảng ta là đảng cầm quyền
Đảng bán ruộng đất lấy tiền đảng tiêu
Không những thế, để bảo đảm chiếc ghế lãnh đạo, những ông lớn của đảng còn đang tâm nhượng một phần lãnh thổ quốc gia cho Trung Quốc. Điển hình là các hòn đảo thuộc quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa, cùng một giải đất rộng lớn bao gồm ải Nam Quan và thác Bản Giốc ở cực Bắc nước ta. Các câu ca dao nêu sau nói lên lòng phẫn uất của nhân dân trước sự kiện này:
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa
Cúi đầu dâng đảo Trường Sa cho Tầu
và:
Tiên sư cộng sản Việt Nam
Cuối đời bán cả giang san nước nhà
Tương lai về đâu?
Nhiều người Việt ở hải ngoại từng về thăm quê hương trong những năm gần đây cho rằng Việt Nam đã tiến một bước khá dài kể từ đổi mới, và ánh sáng ngày một sáng hơn ở cuối đường hầm. Tuy nhiên, đây chỉ là một nhận định phiến diện căn cứ trên sự phát triển tại các thành phố lớn. Đồng ý là trong gần hai thập niên qua, sau khi cộng sản trả lại phần nào quyền tư hữu cho người dân và chấp nhận tự do kinh doanh có giới hạn, nền kinh tế đã tăng trưởng khoảng bẩy, tám phần trăm mỗi năm. Con số này quả là to lớn với những nước đã phát triển nhưng không thể gọi là đáng khích lệ đối với những nước đang cố vươn lên từ nền kinh tế lạc hậu và đang sở hữu một khối lượng nhân công quá rẻ so với những quốc gia khác. Ngoài ra, phần lớn sự phát triển hiện nay bắt nguồn từ khoản “viện trợ” của “khúc ruột ngoài ngàn dặm”, tức số tiền các Việt kiều gửi về cho thân nhân và đầu tư ở Việt Nam, cũng như tiêu pha trong các chuyến về thăm quê hương. Con số này đã lên đến hơn ba tỉ mỹ kim trong năm 2004.
Thêm nữa, điều đáng nói là tại Việt Nam, tài sản quốc gia không được phân chia đồng đều vì hầu hết ở trong tay các cán bộ cao cấp và giới tư bản đỏ liên minh kinh tế với họ. Đại đa số nhân dân, nhất là những người ở nông thôn, còn thiếu ăn thiếu mặc một cách trầm trọng. Nước ta bị sa vào vòng luẩn quẩn không lối thoát. Có quyền thì có tiền và khi có tiền thì giữ được quyền. Điều nghịch lý là vài thập niên sau khi vỗ ngực huênh hoang là đã tiêu diệt được chế độ phong kiến, thì ngày hôm nay, cộng sản đã biến xã hội Việt Nam trở nên phong kiến hơn bất cứ giai đoạn nào trong lịch sử. Đau đớn nhất là dưới sự cai trị của đảng, tham nhũng đã dần dần trở thành một giá trị tiêu cực của nền văn hóa dân tộc, một tệ trạng không phải một sớm một chiều có thể diệt trừ, kể cả khi chế độ cộng sản đã cáo chung.
Dưới ngọn cờ chỉ đạo xã hội chủ nghĩa, Việt Nam sẽ đi về đâu? Người dân sẽ ấm no hơn chăng, sẽ hạnh phúc hơn chăng? Bốn, năm thập niên về trước, dân gian đã vỗ vai ông Hồ mà bảo “này ông, chuyện ấy còn lâu”. Câu nói ấy vẫn chính xác và sẽ còn chính xác cho đến ngày nào Việt Nam còn bị đặt dưới sự cai trị của cộng sản. Chẳng tin, cứ hỏi ông Lê Nin thì biết!
Ơ hay, sao lại có chuyện Lê Nin ở đây? Ông ấy đã “đang từ khỏe mạnh chuyển sang từ trần” từ hơn tám thập niên rồi cơ mà!
Câu chuyện như sau:
Năm 1985, cộng sản Việt Nam cho xây tượng đài Lê Nin cao đến 5,2 thước trong công viên Chi Lăng, gần quảng trường Ba Đình, tại Hà Nội. Ngay sau khi tượng được khánh thành, người dân Hà Nội có bài ca dao nhại theo lời một bài vè ca tụng Lê Nin của thi nô Tố Hữu. Bài ca dao của nhân dân như sau:
Ông Lê Nin ở nước Nga
Sao ông lại đến vườn hoa nước này?
Ông ưỡn ngực, ông chỉ tay
Ông xem như thể nước này của ông
Ít lâu sau, cộng sản Liên Xô sụp đổ, người dân bèn “hồ hởi” đọc cho nhau nghe bản hiệu đính của bài ca dao trên. Mỗi lần đọc xong lại cùng cười hô hố một cách cực kỳ… phản động:
Lê Nin quê ở nước Nga
Cớ sao lại đứng vườn hoa nước này?
Ông vênh mặt, ông chỉ tay:
Tự do, hạnh phúc lũ mày còn xa
Kìa xem gương của nước Nga
Bẩy mươi năm lẻ có ra đếch gì!
Đấy, ông Lê Nin nói đấy: “tự do, hạnh phúc lũ mày còn xa”. Quả là hơn sáu thập niên sau khi chết, đến ngày cộng sản Liên Xô tan rã, ông Lê Nin mới sáng mắt ra.
Ngày hôm nay, gần hết tháng giêng năm 2005, tin tức từ bên nhà cho biết dịch cúm gà đã tái bùng nổ tại 23 tỉnh. Đúng một năm trước, bệnh dịch này đã hoành hành trên khắp đất nước khiến nhiều người thiệt mạng đến nỗi nhà cầm quyền phải ra lệnh giết cả chục triệu con gà để ngừa bệnh lan tràn. Ngay sau khi dịch gà lắng đọng thì dịch heo bộc phát tại miền Nam gây biết bao thiệt hại cho dân nghèo. Trước sự kiện gà và heo đồng loạt lăn quay ra chết vì dịch, người dân đã khẩu truyền cho nhau một câu ca dao thật đặc sắc:
Dịch heo nối tiếp dịch gà
Bao giờ dịch đảng cho bà con vui
Bao giờ thì bà con mới được vui? Căn cứ vào một câu ca dao thuộc loại sấm truyền được lưu hành trong dân gian từ vài thập niên trước thì ngày ấy không còn xa lắm đâu:
Bao giờ Hồ cạn, Đồng khô
Chinh rơi, Giáp rách, cơ đồ mới yên
Xét về khía cạnh nghệ thuật, câu sấm truyền quả là đắt giá vì “hồ”, “đồng”, “chinh”, và “giáp” hiểu theo nghĩa đen là “ao hồ”, “đồng ruộng”, “cái chiêng” và “áo giáp”. Theo nghĩa bóng thì bao giờ các ông Hồ Chí Minh, Phạm Văn Đồng, Trường Chinh, và Võ Nguyên Giáp về chầu ông tổ Mác thì bà con cả nước mới có thể an vui. Đến nay, trong số này chỉ còn ông Giáp, nhưng đại tướng nhà ta đã 94 tuổi, như ngọn đèn dầu leo lét trước gió, có muốn “cầm quần chị em” như thuở trước thì cũng chẳng còn đủ sức mà cầm. Cái ngày “Giáp rách” chắc chắn sẽ xẩy đến chỉ trong nay mai.
Trong kho tàng văn chương truyền khẩu Việt Nam, đa số những câu ca dao phát sinh từ thuở nước ta chưa gặp họa cộng sản và được truyền đến hôm nay là những câu hoặc gói ghém tình cảm con người, nhất là tình yêu nam nữ, hoặc ca ngợi hình ảnh đất nước. Rất ít câu ta thán về sự bạo ngược của chế độ cũng như chỉ trích và châm biếm giới cầm quyền như những câu ca dao thời xã hội chủ nghĩa. Điều này chứng tỏ cộng sản là chế độ gây nhiều lầm than nhất cho dân tộc chúng ta kể từ ngày lập quốc.
Tuy nhiên, khi lật bất cứ tác phẩm sưu tầm ca dao nào được xuất bản tại ViệtNam trong 30 năm qua, chúng ta không bao giờ bắt gặp những câu mang nội dung tương tự những câu trích dẫn trong bài này. Những câu ca dao thời hiện đại được đăng trong những tác phẩm ấy là những câu ca tụng bác và đảng, ca tụng cuộc kháng chiến chống Pháp, và cuộc chiến chống Mỹ Ngụy. Dĩ nhiên, những câu này được sáng tác bởi lũ bồi bút của chế độ. Vì vậy, ngoài sự hiện diện trong tác phẩm, chúng không hề được lưu truyền trong dân gian. Đây là một lừa bịp trâng tráo của đảng và lũ bồi bút.
Tại Việt Nam, năm 1977, ông Vũ Ngọc Phan hoàn tất việc sưu tập và trước tác quyển “Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam”, trong đó có bao gồm phần “Ca dao chống Mỹ cứu nước”, với nhiều bài ca ngợi bác và đảng, dài đến 40 trang sách. Tác phẩm này đã được nhà cầm quyền cho in đến 10 lần tính đến năm 1994. Tuy nhiên, với bản tính lương thiện hiếm thấy so với những người cầm bút khác đã và đang phục vụ chế độ, ông Vũ Ngọc Phan đã cẩn thận ghi tên tác giả của từng bài… “ca dao” trong phần chống Mỹ cứu nước. Là một học giả thành danh từ đầu thập niên 40, dĩ nhiên ông thừa hiểu ca dao là một bài thơ hay vè ngắn (thường là lục bát) từ hai câu trở lên do một người làm ra, rồi qua miệng từng người, dần dần được sửa đổi (một cách ngẫu nhiên) cho đến khi được hoàn chỉnh, tức khi đã phản ảnh đích thực được tâm lý quần chúng. Như vậy, tác giả của ca dao chính là dân gian. Một bài thơ hay vè có ghi tên tác giả không thể là một bài ca dao. Có lẽ tuy hiểu như vậy, nhưng ông Vũ Ngọc Phan vẫn phải bao gồm những bài vè này trong phần ca dao chống Mỹ để thỏa mãn yêu cầu của những người lãnh đạo đảng.
Người viết hy vọng rằng ở một thời điểm không xa, sẽ có những vị thiết tha với văn hóa dân tộc bỏ công san định các câu ca dao đã lưu hành trong suốt thời gian Việt Nam bị đặt dưới ách cộng sản để ghi lại trong những tác phẩm xuất bản tại hải ngoại. Những câu ca dao “ngoài luồng” này mới thực sự có giá trị về cả hai phương diện văn học và lịch sử. Mai sau, khi đọc những tác phẩm ấy, những thế hệ tương lai ở cả quốc nội lẫn hải ngoại có thể phần nào hiểu được nỗi khổ đau cha ông họ đã phải gánh chịu, để họ có cơ hội được làm người. Những tác phẩm ấy cũng sẽ khiến các nhà cầm quyền (không cộng sản) sau này phải đắn đo hơn khi cai trị đất nước, nếu không muốn trở thành “ngàn năm bia miệng” như những người cầm quyền trong nửa thế kỷ qua.
Và, cuối cùng, người viết cũng hy vọng rằng những thế hệ tương lai ấy, họ sẽ không phải khổ sở đánh vật với miếng cơm manh áo như cha ông chúng suốt bao thập niên qua; họ cũng không phải đón nhận, không phải truyền đi những câu ca dao có những giọt lệ đau xót ẩn dấu trong tiếng cười, như những câu ca dao đăng trong bài viết.
Những thế hệ tương lai ấy, họ sẽ có thời giờ, nhiều thời giờ là khác, để đọc những câu ca dao thắm thiết tình cảm của dân tộc, họ sẽ rung động (đến xúc động) khi bắt gặp những câu như “Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn, Tào Khê nước chẩy vẫn còn trơ trơ”.
Và họ sẽ cảm thấy yêu dân tộc hơn, yêu quê huơng hơn: yêu nồng nàn và tha thiết.
Nguyễn Ngọc Bảo