Từ Auclair, theo đường Liên Tỉnh 53, ngược
lên mạn Bắc là Salon Springs thì rẽ phải theo Hương Lộ “P” nhỏ hẹp ngoằn ngoèo
lăn mình giữa những khu rừng phong ngút ngàn trùng điệp, tiếp tục thêm vào dăm
vòng qua những lưng đồi thoai thoải dốc là tới thung lũng Nivagamond, Louisiana,
trạm đặc khu của người da đỏ.
Trời vào Thu, rừng phong đã thay chiếc áo
choàng màu hồng lựu. Hơn nửa giờ lái xe, không một bóng người ngoài tiếng gió
thở dài, tiếng lá khô sào sạc, tiếng rừng cây trăn trở, không còn một âm thanh
nào khác. Tôi cảm tưởng như lạc vào 1 hành tinh xa lạ không sinh vật. Đồi lại
đồi liền liền tiếp nối nhau sau cùng tới Nivagamond. Nơi đây có Viện Dưỡng Lão
Lakeview mà theo lịch trình thì mỗi năm tôi phải đến một lần để thanh tra y vụ.
Lần đầu tiên đến đây nên tôi không khỏi
ngỡ ngàng tưởng dù hẻo lánh đến đâu ít ra cũng có xóm làng, một giáo đường nho
nhỏ hay vài ngôi nhà be bé xinh xinh nhưng tuyệt đối không. Ngoài rừng phong đỏ
lá chỉ có hồ nước trong veo xanh ngắt màu trời. Trung Tâm An Dưỡng Lakeview như
tên gọi ẩn mình dưới tàng cây rợp bóng trên khu đất
rộng.
Quay lưng vô rừng thông nhìn ra mặt hồ phẳng lặng như
gương, tôi ngẫm nghĩ, nơi đây có thể là điểm nghỉ ngơi lý tưởng cho những người
quanh năm lao lực hoặc những ai muốn tìm sự quên lãng, còn chọn làm viện dưỡng
lão thì hơi tàn nhẫn.
Tuổi già vốn đã cô đơn mà nơi đây lại hầu
như tách biệt với thế giới bên ngoài. Trừ y tá, y công và vài chuyên viên dịch
vụ thì chẳng còn ai, người nào cũng bận bù đầu, rảnh rỗi đâu mà tán gẫu với
những người già. Nhất là sau buổi cơm chiều khi hoàng hôn buông xuống, ai nấy
đều đã về nhà thì bóng đêm chắc phải thật dài.
Vừa đẩy cửa bước vào tôi đã giật mình vì gặp một hàng 6
chiếc xe lăn đang dàn chào. Trên mỗi xe là 1 lão ông hoặc lão bà độ bảy, tám
mươi, mái tóc bạc phơ, mắt hom hem sau làn mục kính. Có người trông còn sáng
suốt, người thì như xác không hồn. Họ chăm chú nhìn tôi từ đầu đến chân như quan
sát một quái nhân đến từ hành tinh khác. Có lẽ vì tôi là người Á Châu duy nhất
tới đây chăng? Cô y tá hướng dẫn như đoán được cảm nghĩ của tôi bèn nhoẻn miệng
cười:
-
Ông ngạc nhiên lắm sao?
Tôi
ngập ngừng:
- Bộ họ biết hôm
nay tôi đến đây nên hiếu kỳ muốn trông thấy mặt
tôi.
Cô y
tá khẽ lắc đầu:
- Mỗi ngày đều
như vậy, sáng nào họ cũng ngồi đó để mong
chờ.
-
Chờ thân nhân tới đón?
- Dạ thưa
không.
-
Vậy hay là chờ bạn bè đến thăm?
Cô y
tá phì cười pha trò:
-
Ông nghĩ già ngần ấy tuổi mà còn hẹn bạn gái
sao?
-
Không, ý tôi là bạn thông thường
đấy.
-
Nếu những người bạn ấy chưa nằm xuống thì cũng đang ngồi xe lăn như họ tại một
viện dưỡng lão nào đó thôi, rồi ngậm ngùi họ mong chờ những hình bóng không bao
giờ đến, xa xôi trong ký ức.
Rồi cô
khẽ thở dài:
- Tôi làm việc ở
đây hơn 10 năm, đã chứng kiến nhiều hoạt cảnh, tháng nào cũng có người mới tới
và cũng có người vĩnh viễn ra
đi.
-
Chắc ít nhiều, lòng cô cũng có phần nào xao xuyến, phải không
cô?
-
Thật tình mà nói lúc đầu thì có đấy, nhưng mà bây giờ tôi đã quen
rồi.
-
Tôi nghĩ là cô rất mẫn cảm?
-
Chỉ là do tập luyện thôi chứ bằng không thì sẽ ngã quỵ đó
ông!
Chúng
tôi vào thang máy lên tầng trên, một cụ già chống gậy tập tễnh vô theo. Cô y tá
nhìn ông ta và hỏi:
- Ông đi lên thang máy hay là đi
xuống?
Cụ đáp
như cái máy, giọng nói khò khè yếu ớt khó
nghe:
-
Đi.. đi xuống, rồi đi.. đi lên, rồi đi.. đi xuống , đi
lên.
Tôi
nhận thấy ông ta chẳng nhìn ai cả, ánh mắt không hồn đang hướng về phương trời
vô định. Dường như quá quen thuộc với những hiện tượng này, cô y tá thản nhiên
nói:
- Vậy thì xin
ông bước ra chờ chuyến sau sẽ có người đi với, chúng tôi đang
bận.
Cô bèn nắm tay dẫn ông cụ ra ngoài rồi lạnh lùng khép
cửa. Tôi thắc mắc: - Nếu ông ấy lại
tiếp tục bấm nút thang máy thì sao
cô?
-
Chúng tôi đã lượng trước được điều ấy cho nên tất cả nút cắt điện trong viện đều
gắn rất cao người già không thể với
tới.
- À
thì ra vậy!
Công
tác xong trời cũng về chiều, tôi từ giã, cô y tá tiễn tôi ra cửa. Đoàn xe lăn
vẫn còn dàn chào.
Chợt
trông thấy trong góc tối 1 ông lão độ trên dưới 80 đang cô đơn ngồi bất động
trên xe lăn như pho tượng cũ. Điểm khác biệt khiến tôi chú ý là ông ta không
phải người da trắng và cũng không hoà nhập vào toán dàn chào. Da ông màu đồng
nâu có nhiều vết nhăn đậm nét thời gian hằn trên mặt. Mái tóc bạc phơ rủ loà xoà
trên trán, vóc người bé nhỏ, mắt hom hem trân trối nhìn tôi như muốn nói điều
gì. Tôi đoán chừng ông là thổ dân da đỏ. Hiếu kỳ tôi hỏi cô y tá:
-
Và vị dưỡng lão này cũng là người Indian hở cô? Tôi nghĩ đó là trách nhiệm của
chính phủ liên bang chứ?
Cô ta
ngạc nhiên:
-
Ủa sao ông lại hỏi vậy?
Tôi
trỏ ông lão ngồi xe lăn:
- Vậy không phải
Indian là gì?
Cô y
tá phì cười:
-
Ông ta là người Á Đông đó ông ạ.
Tôi
giật mình:
- Người Á
Đông?
-
Dạ phải, dường như là Việt Nam đó.
Thêm
một lần kinh ngạc, tôi không ngờ nơi vùng đất hẻo lánh đìu hiu lạnh lẽo này cũng
có người Việt cư trú. Tôi bèn hỏi dồn:
- Sao cô biết
ông ta là người Việt.
-
Dạ thưa ông hồ sơ có ghi đó ông ạ.
-
Vậy thì ông ấy vào đây lâu chưa cô?
- Hơn 10 năm.
Rồi cô
khẽ lắc đầu:
- Tội nghiệp,
ông ta rất hiền lành dễ thương ai cũng quý mến cả. Nhưng hiềm chẳng nói được
tiếng Anh cho nên suốt ngày cứ thui thủi một mình không có
bạn.
-
Vậy thân nhân ông ấy có thường xuyên tới thăm ông ấy
không?
-
Một lần cách đây lâu lắm, hẳn có uẩn khúc gì đây.
Không
cam tâm làm ngơ trước người đồng hương đang gặp cảnh bẽ bàng nơi đất khách, tôi
tự giới thiệu tôi cũng là người Việt Nam. Cô ta trố
mắt:
- Ồ thế mà tôi
cứ đinh ninh ông là người Trung
Hoa.
Tôi
cười:
- Trong mắt người Tây Phương, thì bất cứ ai da vàng cũng
là người Tàu.
Cô ta
pha trò:
- Cũng đâu phải
lạ, nhiều anh Tàu nhan nhản khắp nơi. Ngay trong xóm da đỏ hẻo lánh tít mù trên
miền Bắc cũng có. Lần nào qua đó tôi cũng ghé mua cơm chiên, chả giò vừa ngon
vừa rẻ nhưng phải cái là…..
Tôi
nhoẻn miệng cười:
- Mỡ dầu và bột
ngọt hơi nhiều phải không cô?
Cô ta
cười xoà:
- Phải nói là nhiều quá mới đúng. Khổ công tập
thể dục cả tháng, ăn một bữa cơm Tàu là đâu vào đấy, có khi
còn thặng dư là
khác.
Tôi
quay lại vấn đề:
- Tôi muốn tiếp xúc với ông lão người Việt để mà chào
hỏi làm quen, có thể ông ấy cũng đang cần nói chuyện vì lâu lắm chưa có
dịp.
Cô y
tá mừng rỡ:
- Hay lắm, đó
cũng là điều tôi mong muốn. Vùng này hẻo lánh quá nên không tìm ra người thông
dịch, nhân tiện nhờ ông hỏi xem ông ấy có nhu cầu hay đề nghị gì hầu chúng tôi
đáp ứng không?
-
Vâng, tôi sẽ cố gắng làm điều đó cô.
Thấy
tôi đi tới ông lão ngước lên, nhíu đôi mắt hom hem nhìn chầm chập, vừa ngạc
nhiên vừa thoáng chút ngại ngùng. Tôi gật đầu
chào:
-
Dạ thưa chào cụ ạ.
Nét
mặt rạng niềm vui, giọng nói run run vì xúc
động:
- Dạ chào, chào
thầy, thầy người Việt à?
Giọng
ông hơi nặng và chân thật. Tôi thân mật nắm tay
ông.
- Thưa cụ cháu
cũng là người Việt như cụ đấy
ạ.
Ông
lại nghẹn ngào:
- Cảm ơn Thiên
Chúa, cảm ơn Đức Mẹ Từ Bi đã cho tôi gặp được
ông.
Tôi
kéo ghế ngồi bên cạnh và bắt đầu trò
chuyện.
- Thưa cụ, vì
sao cụ cho là cuộc gặp gỡ hôm nay là do Thiên Chúa và Đức Mẹ sắp
đặt.
-
Tại đêm nào tôi cũng cầu nguyện ơn trên cho tôi gặp được người đồng
hương.
-
Có chuyện gì khẩn cấp không thưa cụ?
- Để được nói chuyện bằng tiếng Việt mình
thôi.
Cụ thở
dài:
- Lâu lắm rồi
tôi chưa được nói hay là nghe tiếng mẹ đẻ.
Nhức
trong tim, tôi bùi ngùi thương cảm, một ước mơ thật đơn giản mà sao quá xa vời.
Chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Ông kể:
“Tên tôi là
Tỉnh, Nguyễn Văn Tỉnh, trước kia ở Bình Tuy, làm nghề biển, có thuyền đánh cá.
Tuy không giàu, nhưng cuộc sống cũng sung túc. Tôi có vợ, 3 con trai, đứa lớn
nhất còn sống thì giờ này cũng đã gần 50. Năm 75, Cộng Sản tràn vào, cả nước kéo
nhau chạy nạn, sẵn phương tiện trong tay tôi chở vợ con vượt thoát, nhưng chẳng
may là sau 3 ngày lênh đênh trên mặt biển thì gặp bão lớn tàu chìm. Tôi và đứa
con út lên 6 được may mắn đã gặp tàu Mỹ nó vớt, còn vợ và 2 đứa con lớn thì mất
tích thầy ạ. Sau đó thì tôi được bảo trợ về Louisiana, nơi đây có đông người
đồng hương nên cũng đỡ buồn. Tôi bắt đầu tái tạo sự nghiệp, hùn hạp với bạn bè
mua tàu đánh cá làm việc ngày đêm, trước là để vơi buồn, sau là tạo dựng tương
lai cho thằng Út, giọt máu cuối cùng còn sót lại của tôi. Tôi ước mong thằng bé
sẽ theo cha mà học nghề biển nhưng nó thì không muốn. Nó chỉ thích làm bác sĩ,
kỹ sư ngồi nhà mát thôi chứ không chịu dãi nắng dầm mưa như bố, thế nên thầy
biết không, vừa xong trung học là nó quyết chọn trường xa để mà tiếp tục theo
đại học”.
Ông
ngừng lại một chút để dằn cơn xúc động rồi ngậm ngùi kể
tiếp:
“Tôi chỉ có mình
nó, không thể sống xa con, nên quyết định là bán hết tài sản để mà dọn theo, bạn
bè ai cũng ngăn cản thầy ạ, nhưng tôi quyết giữ lập trường, mang hết tiền dành
dụm đến cái tiểu bang này mua 1 căn nhà nhỏ ở ngoại ô, còn chút ít thì gửi vào
trong quỹ tiết kiệm lấy lời sống qua ngày. Hai cha con đùm bọc nhau, cuộc sống
tuy chẳng sung túc nhưng chẳng nhẹ nhàng. Tuổi ngày một già thì sức khỏe càng
yếu, năm ấy trời mưa đá, tôi bị ngã gẫy chân thầy ạ. Bác sĩ cho biết xương già
thì không có lành được và phải vĩnh viễn ngồi trên xe lăn. Thằng Út ra trường có
việc làm ở Nữu Ước.
Tự biết là khó có thể theo con và không muốn làm trở
ngại bước tiến thân của nó nên tôi xin vào viện dưỡng lão. Tôi lên tiếng trước
thầy ạ cho nó khỏi bị khó xử. Nó giúp tôi làm thủ tục và hứa là khi nào làm ăn
yên ổn nó sẽ đón tôi về. Các viện dưỡng lão tương đối khá đều hết chỗ, may thay
trong lúc đang bối rối thì có anh bạn học người da đỏ quen Út mách cho tôi nơi
này. Thấy con tôi buồn tôi bèn an ủi nó: nơi nào cũng là quê người, cũng giống
nhau thôi, thỉnh thoảng con về thăm bố là bố vui rồi. Thế là cả ngôi nhà lẫn
tiền dành dụm phải trao hết cho viện dưỡng lão, dĩ nhiên là tôi được
nhận.”
Ánh
mắt xa xôi nhìn về phía chân trời đang có đàn chim chiều đang soải cánh ông chép
miệng:
-
Chà nhanh quá, mới đó đã 10 năm rồi.
-
Thưa cụ, thời gian qua chắc là anh Út vẫn thường xuyên về thăm cụ
chứ?
-
Ừ, một năm thì nó cũng trở lại, nó khoe tôi hình cô gái Mỹ và nó nói, dâu tương
lai của bố đó. Rồi thầy biết không, từ đó biệt tăm
luôn.
-
Cụ hoàn toàn không biết tin tức gì về anh ấy sao?
-
Không, mà thật tình tôi cũng không muốn biết
nữa.
- Tại sao, anh ấy là con trai duy nhất của cụ mà? Cháu
sẽ giúp cụ tìm anh ấy nhé?
Ông
lão rơm rớm nước mắt:
-
Tôi sợ lắm, thầy ơi, thà biền biệt như thế mà tôi vẫn tin tưởng là nó đang sống
tốt với vợ con ở một nơi nào đó trên quả đất còn hơn là biết tin buồn. Quả tình
tôi không kham nổi.
Tôi
nghẹn lời nói không được, lát sau qua cơn xúc động, tôi bèn
hỏi:
-
Giờ đây cụ có còn ước nguyện gì thì cụ cho cháu biết, cháu sẽ hết lòng giúp với
tất cả khả năng của mình thưa cụ.
Ông
lão thở dài:
- Già rồi còn
được mấy năm trước mặt hở
thầy?
Ánh
mắt chợt linh động, ông nhìn tôi và chép
miệng:
-
À, mà tôi thèm một bát bún riêu quá.
Hai
tuần sau vào ngày Chủ Nhật, tôi nhờ chị bạn thân nấu giùm 2 bát bún riêu cua,
bún nước để riêng, có đầy đủ chanh, rau, nước mắm, ớt hiểm tươi còn đặc biệt có
thêm lọ mắm ruốc thật ngon. Tôi cho tất cả vào túi xách đem vào viện dưỡng lão
Lakeview. Mất hơn 4 giờ, sau cùng tôi đã tới. Như lần trước, ông vẫn ngồi trên
xe lăn gần cửa sổ cuối phòng.
Bất
ngờ trông thấy tôi ông mừng rỡ kêu lên:
- Ồ kìa thầy,
thầy lại về đây công tác hở
thầy?
Tôi
chạy tới nắm tay ông:
- Dạ thưa lần
này thì cháu chỉ đến đây thăm cụ và cháu có một món quà đặc biệt mang biếu cụ
đây.
Lộ vẻ
cảm động ông cụ nhoẻn cười đôi mắt nhăn
nheo:
- Bày vẽ làm chi
hở thầy, đến thăm tôi là quý rồi thầy
ơi.
Tôi
xin phép ban quản lý đưa cụ ra vườn vì thức ăn nặng mùi mắm ruốc nên tôi phải
mang theo 1 lọ cồn nhỏ để đun nóng ngoài trời. Cụ chăm chú nhìn tôi bỏ bún ra
tô, trộn rau ghém, nêm mắm ruốc, chan nước dùng nghi ngút bốc hơi, rắc chút tiêu
thơm trên lớp gạch cua nổi vàng trên mặt. Nặn hai lát chanh tươi và sau cùng là
ba trái ớt hiểm đỏ thơm nồng cay xé lưỡi. Không nén được thèm thuồng, chốc chốc
cụ lại nuốt nước bọt. Tôi đặt tô bún riêu trước mặt và mời cụ cầm đũa. Cụ run
giọng:
-
Cám ơn thầy, không ngờ hôm nay tôi còn được ăn bát riêu cua. Mời thầy cùng ăn
cho vui ạ.
-
Cám ơn cụ, cháu đã ăn xong ở nhà, xin cụ dùng tự nhiên, bún riêu còn nhiều, hết
tô này cháu sẽ hâm tô khác.
Cụ
trịnh trọng húp từng muỗng xúp, gắp từng đũa bún, cắn từng miếng ớt cay ngon
lành như chưa từng được ăn ngon, chốc chốc cụ dừng tay để lau mồ hôi và luôn
miệng khen tấm tắc:
- Trời ơi, bún riêu ngon quá mà mắm ruốc thơm
quá thầy
ơi.
Tôi
cảm động đặt tay lên vai cụ:
- Thưa nếu cụ
bằng lòng nhận cháu làm con, cháu sẽ thay anh Út và thường xuyên thăm viếng cụ
nhé.
Cụ
sững sờ nhìn tôi thật lâu như không tin ở tai mình rồi hai dòng nước mắt từ từ
lăn dài trên đôi má hóp:
- Trời ơi, sao
tôi có được diễm phúc như vậy sao
trời!
Tôi
yêu cầu ban quản lý ghi tên tôi vào danh sách thân nhân, và dặn dò khi có chuyện
cần thì cứ gọi. Năm sau, còn một ngày nữa là Tết, tôi đã chuẩn bị xong quà cáp
có cả trà thơm, mứt ngọt dự định sáng hôm sau Mồng Một đầu năm sẽ mang lên
Lakeview mừng tuổi cụ. Đang ngon giấc, chợt có chuông điện thoại, tôi nhấc ống
nghe, bên kia đầu dây tiếng cô y tá trực của viện dưỡng lão
Lakeview:
- Dạ thưa hỏi,
có phải ông là ông Trần
không?
- Dạ vâng ạ, là
chính tôi đây .
-
Dạ thưa ông, cụ Tỉnh đau nặng.
-
Tình trạng thế nào có nguy không cô?
-
À, đang nằm phòng hồi sinh bệnh viện ở thành phố đó thưa
ông.
-
Cám ơn cô rất nhiều, ngày mai tôi sẽ đến
cụ.
- À
ông nên đi sớm hơn đi là vì sợ không còn dịp
nữa.
Tôi
rụng rời, ngoài trời tuyết rơi càng lúc càng nhiều, trời trở lạnh, gió giật từng
cơn, hoa tuyết bay nghiêng như ngàn vạn mũi tên bắn vào kính nghe rào rào như
vãi cát. Không gian mờ mịt, rừng phong trắng xoá một màu, tuyết phủ lớp dầy trên
mặt đất. Tôi rà thắng cho xe chạy chậm để khỏi rơi xuống hố. Sau cùng cũng tới
được bệnh viện Hayward.
Cô y
tá nhìn tôi ái ngại:
- Thưa ông, suốt
đêm qua ông ấy cứ gọi tên một người nào đó. Không biết có phải là ông không
ạ.
- Cô còn nhớ là
ông gọi tên gì không?
-
Chỉ một tiếng duy nhất, dường như là Work hay Út gì
đó.
Tôi đã
hiểu là thằng Út.
Tôi hé cửa lách vào trân trối nhìn ông rồi ngồi xuống
bên giường, người ông khô đét, hai mắt nhắm nghiền, hơi thở yếu ớt. Tôi nhẹ
nhàng đặt tay lên vầng trán nhăn nheo. Ông chợt cử động rồi thều thào..
Út..
Út.
Nước
mắt chực trào ra, giờ phút nầy tôi phải làm một điều gì để ông được mỉm cười khi
vĩnh biệt. Tôi bóp nhẹ bàn tay gầy guộc và nghẹn
ngào:
-
Thưa cha, con đã về đây thưa cha.
Mi mắt
ông động đậy, cố nhướng nhìn lên. Rồi kiệt sức nên từ từ khép lại nhưng môi còn
mấp máy:
- Út.. Út, Út
con.
- Phải thưa cha, con là Út đây cha.
Con là đứa con bất hiếu
đã quay về bên cha để xin cha tha thứ cho con.
Tôi
cảm được các ngón tay khô gầy đang bắt đầu cử động trong lòng tay tôi, cố nắm
giữ đứa con yêu đừng có xa rời. Nước mắt tôi vô tình rơi xuống làn môi khô nứt
nẻ đang hé một nụ cười.
Gia
tài ông để lại là một bọc vải nhỏ trong ấy có một tượng chúa Giê-Su bị đóng đinh
trên cây thập giá và tấm hình đen trắng đã trổ vàng chụp gia đình 5 người đoàn
tụ, đứa nhỏ nhất còn bế trên tay, tôi đoán nó tên là
Út.
Tuổi xuân giờ đã đi
đâu
Còn đây tóc bạc phai màu thời
gian
Tác giả Ẩn Danh