Hồi sinh xác chết
Từ tháng Giêng năm 2014, một chiến dịch “đánh lên” bất động sản lại được khởi động đồng loạt ở ba thủ phủ lớn trên phạm vi quốc gia là Hà Nội, Đà Nẵng và Sài Gòn, sau vài lần phải nhận lấy thất bại chua chát trong hai năm 2012 và 2013.
Một trong những phương cách hết sức cổ điển mà các nhóm đầu cơ bất động sản và ngân hàng sử dụng lần này vẫn là truyền thông. Không quá khó khăn để công luận nhận ra số lượng bài viết theo cách “thị trường bất động sản có nhiều dấu hiệu phục hồi”, “giá nhà đất bắt đầu tăng”… xuất hiện tràn lan và không cần giấu vẻ trơ trẽn trên nhiều tờ báo in và trang mạng.
Hà Nội – một trung tâm không chỉ về kinh tế mà ngày càng dồn dập biến động về xã hội và chính trị – trở nên sôi động và trơ trẽn hơn cả. Chiếm gần phân nửa số hàng tồn kho của cả nước về căn hộ cao cấp và trung cấp, thủ đô này có thể cảm nhận tâm trạng của các đại gia nơi đây đang bén ngọt đến thế nào nếu năm con Ngựa không thể phi mã tống táng hàng tồn và do vậy không thể thanh lý nợ xấu cho giới chủ ngân hàng luôn cầm dao đằng chuôi.
Như một đặc trưng thời thượng của làng báo chí Việt Nam, một đội ngũ viết thuê đã hình thành từ Bắc vào Nam. Nếu trước đây giới PR bất động sản này sinh sống chủ yếu trên các tờ báo thương mại, kinh tế, thì nay đã chen chân vào cả những tờ báo đảng loại 1 nhưng rất khó bán như Nhân Dân, Hà Nội Mới, Đại Đoàn Kết…
Thây ma biết đi
Tình thế nền tài chính và tín dụng quốc gia đang trở nên xấu chưa từng thấy vào đầu năm 2014, đặc biệt khi Moody’s – một hãng xếp hạng tín nhiệm có uy tín trên thế giới – lần đầu tiên tung ra số liệu đến 15% nợ xấu trên tổng tài sản của nền kinh tế Việt Nam. Bất chấp hành động của Ngân hàng nhà nước cải chính “báo cáo của Moody’s chỉ có ý nghĩa tham khảo”, một tỷ lệ mới vể nợ xấu cũng lần đầu tiên phải được thừa nhận bởi cơ quan Việt Nam quá nhiều tai tiếng này: 9%.
Quy luật biện chứng lịch sử cực kỳ thời thượng là không thể giải quyết được nợ và nợ xấu nếu không xử lý được núi tồn kho khổng lồ bất động sản, và ngược lại như một định lý đảo. Cặp bài trùng này đã hiện hình từ giữa năm 2011, khi một hãng xếp hạng tín nhiệm lớn trên thế giới là Fitch Ratings tuyên bố tỷ lệ nợ xấu trong các ngân hàng thương mại Việt Nam là 13%, tức gấp đến 4 lần con số chỉ hơn 3% do Ngân hàng nhà nước công bố vào cùng thời điểm.
Đến kỳ họp quốc hội gần giữa năm 2012, Ngân hàng nhà nước bất ngờ thừa nhận tỷ lệ nợ xấu lên đến 10%, tức chỉ số này đã tăng đến 3 lần chỉ trong vòng chưa đầy một năm. Ngay vào lúc đó, thị trường bất động sản đã trở nên nguy ngập với độ trơ lì đầy kiên định của nó là vô phương cứu chữa.
Không ai có thể hiểu được cơ quan điều hành tài chính - tín dụng và tiền tệ cao nhất quốc gia, nếu bản thân họ cũng không ý thức được những gì đã và đang làm. Trong tâm thế luẩn quẩn đối phó với sức ép của công luận, chỉ một thời gian ngắn sau tỷ lệ nợ xấu lại được Ngân hàng nhà nước kéo xuống 8%, rồi còn 6%. Nhưng với tất cả các đại biểu Quốc hội nặng thói quen đọc báo cáo do người khác cung cấp, vẫn không có gì đáng ngạc nhiên khi toàn bộ số liệu của Ngân hàng nhà nước đã không cần kèm thuyết minh hoặc một cơ sở tối thiểu nào cho hai chiều lên - xuống về tỷ lệ nợ xấu. Hiểu ẩn ý hơn, có lẽ đây là một trong những cơ quan có biệt tài giấu diếm đến tận cùng hoạt động số liệu, cùng lúc đẩy Việt Nam vào một trong những vị trí tồi tệ nhất trong bảng xếp hạng của Tổ chức Minh bạch quốc tế.
Ngay cả con số đầy bất ngờ về tỷ lệ nợ xấu lên đến 35-37% do Ủy ban giám sát tài chính quốc gia – một trong những cơ quan tư vấn của Chính phủ – đột ngột công bố vào giữa năm 2013, cũng không thể làm tình trạng minh bạch sáng sủa hơn. Nhưng đến lúc này, hiện thực nguy hiểm đã tỏ rõ thế nan nguy cận kề của nó: với độ chênh đến 6 lần giữa báo cáo của hai cơ quan cùng hệ thống nhà nước, người ta có thể mường tượng một cuộc khủng hoảng tài chính - tín dụng và cả mối xung đột phe nhóm có thể nổ ra ở Việt Nam trong những ngày tháng không quá xa xôi, tái hiện hình ảnh cuộc khủng hoảng tương tự ở Thái Lan vào năm 1997.
Cần nhắc lại, nếu trước cuộc khủng hoảng tài chính 1997, tỷ lệ nợ xấu chỉ được người Thái báo cáo có 5%, thì sau khi khủng hoảng bùng phát, giới quan sát đã kinh ngạc trước tỷ lệ nợ xấu thực ở quốc gia này lên đến 50%, tức gấp chẵn 10 lần!
Với trường hợp Việt Nam, mặc dù vẫn còn trong giai đoạn cố gắng che giấu sự thật, nhưng một sự thật khác không thể phủ nhận là trong suốt ba năm qua đã không thể giải quyết khúc xương lớn nhất thuộc về thị trường nhà đất. Gói hỗ trợ 30.000 tỷ đồng là một ví dụ rất tiêu biểu, khi qua 9 tháng khuyến dụ mới giải ngân được vỏn vẹn 3%.
Trong khi đó, dấu hiệu sức mua cạn kiệt vào tết nguyên đán 2014 lại như một điềm báo rất xấu đối với sức tiêu thụ nhà đất. Giảm đến 40-50% so với tết năm ngoái, lực cầu thị trường tiêu dùng đang làm nên một cơn chấn động về thiểu phát và có thể cả giảm phát. Tình hình đó chắc chắn đang phản ánh trạng thái “trơ” của không chỉ thị trường hàng hóa nói chung mà còn với cả thị trường bất động sản đang quá thiểu năng trí tuệ này.
Làm thế nào có thể tiêu thụ ít nhất 100.000 căn hộ trung cấp và cao cấp đang oằn mình trong nắng gió ở Hà Nội và Sài Gòn? Làm thế nào để vào giữa năm 2014 hoặc cùng lắm đến đầu năm 2015, các con nợ đại gia bất động sản có thể đẩy được hàng, dù chỉ một phần, để trả nợ cho các ngân hàng chủ nợ, để các ngân hàng mới có thể “phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng rủi ro” như một đòi hỏi theo tinh thần “sống chết mặc bay” của Ngân hàng nhà nước?
Tầng cuối địa ngục
Trong thế tuyệt vọng, nhóm lợi ích ngân hàng ôm tài sản thế chấp bất động sản đang cố tung ra con bài cuối cùng vào năm nay. Chiến dịch “đánh lên” bất động sản thậm chí còn được khoa trương bởi một thông tin sốt dẻo úp mở mới được tung ra vào những ngày gần đây: sẽ có gói kích cầu lên đến 100.000 tỷ đồng dành cho thị trường này!
100.000 tỷ nào? Và tiền ở đâu ra? Hẳn giới đầu tư luôn bị thất vọng ở Việt Nam vẫn không quên sự kiện là vào cuối năm 2012 và sang nửa đầu năm 2013, những quan chức có tầm cỡ của Bộ Xây dựng như Thứ trưởng Nguyễn Trần Nam, cùng một dàn “chuyên gia lợi ích” đã liên tục “tiết lộ” về gói kích cầu lên đến 180.000 - 200.000 tỷ đồng cho bất động sản. Tuy thế cuối cùng thị trường khốn quẫn này vẫn không nhận ra bóng dáng của bất kỳ gói kích thích nào. Thậm chí, ngay cả vốn lưu động mà Ngân hàng nhà nước thường rót cho các ngân hàng thương mại vào dịp tết cũng gần như biến mất vào tết nguyên đán năm 2014.
Cô kiệt về nguồn vốn mới đang là tình thế thảm thương mà nhóm lợi ích ngân hàng không làm cách nào lay động được độ trơ của thị trường bất động sản. Núi tiền mặt vẫn dày ngộn trong két sắt Ngân hàng nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần, nhưng dấu chấm bi đát cùng tắc biến là nó lại không thể biến hóa vào thị trường lưu thông theo bất kỳ ý nghĩa sinh lợi nào. Tình hình đó càng lộ rõ triển vọng tắc nghẹn khi một chuyên gia PR tiết lộ một cách trần trụi: toàn bộ con số 100.000 tỷ đồng của “gói kích cầu” bất động sản không hề là “tiền tươi thóc thật” như giới đầu tư và tiêu dùng mong ngóng, mà chỉ là tiền được tạo ra bởi trái phiếu đặc biệt của Chính phủ.
Sẽ không có gì để bàn cãi về tính tác dụng của trào lưu phát hành trái phiếu, nếu tự thân nó không hàm chứa những thất bại hiển nhiên đã được thực chứng. Vào giữa năm 2013, kế hoạch phát hành 600 triệu USD trái phiếu chính phủ để cứu tập đoàn Vinashin đã không thể chứng nhận được bất cứ một nguồn tiêu thụ nào. Vậy với một thị trường bất động sản và cả hệ thống ngân hàng đã quá suy mòn niềm tin chính sách và cả niềm tin chính thể, làm sao có thể tống táng trái phiếu để lấy tiền cứu giới tồn kho?
2014. Kịch bản “phục hồi kinh tế” đang cố gắng được lặp lại những gì của năm 2009, tức cho thị trường chứng khoán sôi trào và kích thích tâm lý phục hồi giả dối đối với người dân và các nhà đầu tư. Tuy nhiên, khác hẳn với năm 2009 là lúc mà ngân sách nhà nước còn đủ 8,5 tỷ USD đổ ra cho một gói kích thích, trong hai năm 2012 và 2013 đã hoàn toàn chẳng có một định dạng nào cho gói kích cầu. Cũng bởi thế và cùng với độ trơ hiện hữu của thị trường bất động sản, cho dù chỉ số chứng khoán Việt Nam đang cố tình được đẩy lên gấp đôi độ tăng của thị trường chứng khoán Mỹ, vẫn quá khó có hy vọng là thị trường này sẽ tạo ra được hiệu ứng “bình thông nhau” với lực cầu trên thị trường bất động sản.
Thậm chí với thị trường chứng khoán Việt Nam, đặc tính vô cùng không minh bạch của nó cộng với thói quen “cờ bạc quen tay” của không ít kẻ chỉ muốn móc tiền từ túi người khác càng biến thị trường này thành một cơn chao đảo nóng lạnh cực kỳ bất thường. Không còn là tâm điểm để giải quyết hàng tồn kho, chứng khoán và cổ phiếu chỉ là liệu pháp cuối cùng để các nhóm lợi ích ngân hàng và bất động sản dùng để kích động tâm lý và sức mua đối với thị trường nhà đất. Bởi vậy nhiều khả năng là nếu độ trơ của thị trường bất động sản vẫn hoàn toàn lì lợm trong nửa đầu năm 2014, người ta sẽ chứng kiến một cú bổ nhào cay đắng của các chỉ số chứng khoán.
Dùng thị trường đầu cơ để tạo ra những ảo ảnh về phục hồi nền kinh tế – đó là cơn bĩ cực khôn nguôi của một nền kinh tế bị nạn cờ bạc và tham nhũng ăn vào tận xương tủy trong suốt hơn hai chục năm qua.
Toàn thể cơn bĩ cực như thế thuộc về “thành tích điều hành” của Chính phủ. Nhưng đáng phẫn nộ hơn, nó đổ lên đầu người dân toàn bộ đống rác thải của một thứ chủ nghĩa tư bản dã man trong nền kinh tế thị trường độc quyền “định hướng xã hội chủ nghĩa” theo ngôn ngữ và sở thích độc trị của Đảng.
P. C. D.
Tác giả gửi trực tiếp cho BVN
Nguồn TNCG.