http://vhtttg.blogspot.de/ chân thành kính chúc Qúy Độc Giả An Khang - Thịnh Vượng - Vạn Sự Như Ý

Chia sẻ thông tin văn hóa hữu ích

Chia sẻ thông tin văn hóa hữu ích

Mừng Xuân Quý Mão 2023 và 40 năm hội nhập của cộng đồng người Việt tị nạn tại Mönchengladbach

Sau 2 năm gián đoạn vì nạn dịch Corona, Hội Người Việt Tị Nạn Mönchengladbach tái hoạt động, tổ chức lễ Hội Mừng Xuân 40 năm tha hương,

Tết Quý Mão 2023, tại Krahnendonkhalle Neuwerk Mönchengladbach với sự hỗ trợ của Gia đình Phật tử, Cộng đồng Công giáo tại Mönchengladbach, Hiệp hội Bác Ái Vinh Sơn Phaolô, Liên Hội Người Việt Tị Nạn tại Cộng Hòa Liên Bang Đức.

Cộng đồng tị nạn, qui tụ trên 800 đồng hương tại tỉnh nhà Mönchengladbach và vùng phụ cận Nettertal, Aachen, Krefeld, Neuss, Düsseldorf, Herner, Köln, Troisdorf, Duisburg, Recklinghausen, Oberhausen, Essen, Münster, đặc biệt còn có sự tham dự của các đồng hương từ các thành phố xa xôi như Frankfurt, Berlin, Hamburg, Bỉ, Hòa Lan, cùng về góp mặt trong ngày vui Xuân đầu năm này. Hội Xuân tuy được tổ chức hơi muộn nhưng vẫn còn đượm màu sắc của ngày Tết cổ truyền.


Về phía chính quyền sở tại có sự hiện diện của ông Tỉnh trưởng Felix Heinrichs (FDP), ông Phó tỉnh trưởng Hajo Siemes (Grüne) cùng phu nhân, bà Yüksel (SPD), Dân biểu Quốc hội Liên bang, cô Vanessa Odermatt, Dân biểu Quốc hội Tiểu bang Nordrhein Westfalen, Ông Rolf Lüpert, Hiệu trưởng, bà Christel Neudeck, phu nhân cố tiến sĩ Rupert Neudeck - người sáng lập "Con tàu Cap Anamur" - ông Volker Rath (Deutsche Notärtze), Hội trưởng Hiệp hội "Cap Anamur" và nhiều vị quan khách Đức khác. Về phía người Việt, có sự hiện diện của giáo sư và bác sĩ Nguyễn Nam Huân, Giám đốc bệnh viện Elizabeth tỉnh Mönchengladbach, cùng phu nhân, ông bà dược sĩ Lâm Kim Khánh, cư sĩ Phật giáo Hòa Hảo Lê Công Tắc, linh mục tuyên úy Đa Minh Bùi Trọng Biên, cộng đồng Công giáo Việt Nam Paderborn, Essen.

Vì bận công vụ nên thống đốc tiểu bang Nordrhein Westfalen, ông Hendrik Wüst (CDU) cũng như bà Mona Neubaur, phó thống đốc tiểu bang NRW, và ông Dr. Günter Krings, trưởng ban nghị sĩ CDU/CSU tại Hạ nghị viện, đều viết thư chúc mừng cộng đồng người Việt tị nạn Mönchengladbach đã thành công trong quá trình hội nhập tại Đức.
Nhằm bảo tồn văn hóa, tập tục cổ truyền của tiền nhân, mục đích của buổi hội Xuân là tạo cơ hội gặp gỡ, hàn huyên cho các thân hữu trong cộng đồng. Hội Xuân cũng là dịp tỏ lòng cám ơn chính phủ, nhân dân Đức và ủy ban Cap Anamur đã cứu vớt 11.300 thuyền nhân trên biển cả, đến nay, sau 40 năm hội nhập, đều được an cư lạc nghiệp.

Chào mừng quan khách bắt đầu lúc 18:00 giờ với màn rước cờ của 50 thiếu nữ mặc áo dài truyền thống, màu sắc rực rỡ cùng với ba hậu duệ của ba binh chủng Hải quân, Lục quân, Không quân Việt Nam Cộng Hòa năm xưa.
MC Trịnh Đỗ Tôn Vinh, MC Kim Anh và MC Bạch Lan với sự điều hợp của ban tổ chức, anh Hạnh Nhận, chị Kim Trinh, chị Ngọc Mai, và chị Mai Hân đã mời các vị quan khách cùng cắt băng khai mạc buổi lễ. Sau đó đến phần chào cờ, một phút mặc niệm. Kế tiếp ba vị cao niên, cùng hai vị chức sắc tôn giáo, làm lễ thắp hương cầu nguyện cho quốc thái dân an và tưởng niệm đồng bào nạn nhân của Tết Mậu thân vào 55 năm về trước.
Nhân danh trưởng ban điều hành tổ chức, ông Nguyễn Văn Rị mở lời khai mạc hội Xuân với ý nghĩa 40 năm hội nhập thành công tốt đẹp, cám ơn chính phủ liên bang, tiểu bang và thành phố Mönchengladbach, con tàu Cap Anamur đã tiếp nhận đồng bào tị nạn, đồng thời cũng không quên ngỏ lời cám ơn đến các đoàn thể như VOVINAM, các ban ngành như ban nhạc MG, văn nghệ sĩ Châu âu, vũ múa cờ, múa nón, diễn hành, âm thanh ánh sáng, tiếp tân, khánh tiết, trật tự, ẩm thực, vệ sinh v.v. đã góp sức cho sự thành công mỹ mãn của hội Xuân mừng Tết Quý Mão năm nay. Đặc biệt, đoàn múa lân đã mang đến cho buổi lễ một không khí tưng bừng, nhộn nhịp.

Ông Đặng Phú Hiệp và Kim Ngân - khi được tàu Cap Anamur cứu vớt, cháu còn là một em bé sơ sinh mới được 10 ngày tuổi - cùng bày tỏ lòng biết ơn đến chính phủ và nhân dân Đức, đến ủy ban Cap Anamur đã cứu vớt họ trên biển Đông, cho phép định cư tại quốc gia này, được sống trong tự do và hạnh phúc, an cư lạc nghiệp, con cái thành đạt.
Phần phát biểu của các quan khách Đức, ông tỉnh trưởng Heinrichs và bà dân biểu Yüksen, bà Neudeck - vị ân nhân gắn liền với thuyền nhân tị nạn Việt Nam - đều nhắm vào lời khen ngợi cộng đồng tị nạn đã hội nhập thành công tại Đức, chịu khó, siêng năng, con cái học hành chăm chỉ, xuất sắc, thành đạt, góp phần cho sự phát triển giàu mạnh của nước Đức cũng như của thành phố Mönchengladbach.
Một nét văn hóa cổ truyền được lưu giữ là phong tục lì xì cho các cháu trong ngày Tết được nhắc lại qua hoạt cảnh "Bà phát quà cho con cháu". Phần trình diễn văn nghệ với những bài hát vui tươi xen lẫn màn trình diễn áo dài tha thướt là nét chấm phá đánh dấu 40 năm hội nhập thành công.

Nhân dịp lễ hội mừng Xuân này, chúng ta cũng không quên nỗi bất hạnh của trẻ em Ukraine, vì vậy ban tổ chức đã quyên góp số tiền tổng cộng là 2.450 Euro, nhờ Caritas chuyển giao đến các chương trình giúp đỡ nạn nhân chiến tranh Ukraine.


Thay mặt ban tổ chức, ông Rị gởi lời cám ơn đến các ban ngành đã yểm trợ cho hội tổ chức thành công tốt đẹp, cũng như mong mọi người thông cảm cho những sơ sót có thể xảy ra trong buổi vui Xuân này.
Chương trình kết thúc vào lúc 24:00 giờ, quan khách nuối tiếc ra về với những lời hẹn hò gặp gỡ ở lễ hội Xuân năm tới.


Một đồng hương tham dự
Mönchengladbach ngày 27.02.2023
Read more…

Chưởng môn phái Việt Võ Đạo (Vovinam) - Tù Cải Tạo

Ảnh: Võ sư Lê Sáng và võ sư Sáng tổ Nguyễn Lộc (phải). Ảnh tư liệu

Sau 1975, võ sư chưởng môn đi tù mất 13 năm (1975-1988) và các võ đường Vovinam (Việt võ đạo) năm 1990 mới được phép hoạt động trở lại
Cho đến nay, tôi vẫn không biết lý do ông vào tù nhưng với số năm tù của ông thì có thể đoán ông có một chức vụ cao trong chính quyền Việt Nam Cộng Hoà
Chuyện đi tù cải tạo của võ sư Lê Sáng, chưởng môn Vovinam

Tôi biết Võ sư Lê Sáng Chưởng môn phái Việt Võ Đạo tức Vovinam từ lúc còn mới chập chững bước vào nghiệp báo bổ qua lời giới thiệu của một môn sinh của ông lúc đó mới mang chuẩn Hồng đai Nguyễn Đức Quỳnh Kỳ. Sau đó có một vài lần đến võ đường của Vovinam gần nơi tôi làm việc để xem Quỳnh Kỳ dạy võ cho các môn đệ của anh và đến tổ đường Vovinam ở 31 đường Sư Vạn Hạnh để xem Quỳnh Kỳ học võ với võ sư Chưởng môn Lê Sáng.

Rồi sau đó, miệt mài với nghề nghiệp, với chiến trường nên tôi không còn hình ảnh nào với môn phái này nữa suốt trong thời gian chiến tranh.
Cho mãi đến năm 1976, khi tôi từ biệt giam ở nhà tù Chí Hòa ra ngồi tù ở phòng tập thể số 14 khu ED thì gặp lại võ sư Lê Sáng.

Khoảng thời gian này, buồng giam 14 khu ED là một buồng giam có nhiều điểm đặc biệt về tù nhân. Chẳng hạn như trong số hơn 60 tù nhân, có cựu Thủ Tướng VNCH Phan Huy Quát và con trai là Phan Huy Anh, Phó Đại sứ Nam Hàn tại VNCH (rất tiếc tôi đã quên mất tên vị này), linh mục Trần Hữu Thanh (người cầm đầu phong trào tố cáo tham nhũng), Võ sư Suzuki một người Nhật nhưng quốc tịch Việt Nam chuyên dạy môn karate cho cảnh sát quốc gia và quân đội VNCH, Chủ tịch Dân Xã Đảng Phan Bá Cầm, cụ Nguyễn Phan tổng giám đốc công ty bột giặt NET, Lưu Nhật Thăng, một chủ báo Hoa ngữ ở Chợ Lớn từng là thư ký của Kim Dung, nhà văn chuyên viết tiểu thuyết kiếm hiệp nổi tiếng ở Hong Kong, ông Tám Mộng người được nói là cầm đầu một trong những lực lượng vũ trang của Phật Giáo Hòa Hảo, ông Nguyễn Thế Thông giáo sư Anh văn rất nổi tiếng của Saigon vào thời đó.

Năm 1976, ghẻ bắt đầu hoành hành tại khắp các khu ở nhà tù Chí Hòa và riêng buồng 14 khu ED. Ghẻ kềnh ghẻ càng, ghẻ khủng khiếp. Ghẻ làm da hư hại nặng có thể gây tử vong, và một trong những nạn nhân đầu tiên của dịch ghẻ là cựu Thủ tướng Căm Bốt Sơn Ngọc Thành.

Trong buồng giam chỉ có võ sư Lê Sáng là coi như bị nhẹ nhất chỉ ở kẽ ngón chân và ngón tay. Có lẽ thấy ông còn mạnh và quắc thước nên ghẻ có vẻ kiêng nể ? Vì phòng chật và nóng như lò than nên ban đêm Lưu Nhật Thăng thường dựa vào tường ngủ đứng, còn võ sư Lê Sáng thì ngồi tập và điều tức rất kín đáo tại chiếu nằm của mình. Ông tránh để giám thị canh gác phòng giam nhìn thấy ông tập, bởi vì vào thời đó, nếu bọn coi trại giam biết ai có võ chúng sẽ gây phiền hà vô cùng.

Ông ít nói chuyện, hay ngồi trầm ngâm với chiếc điều cầy. Nhưng với đám tù chính trị còn thanh niên như chúng tôi thì ông không ngại gì khi giảng giải về phái võ mà ông là Chưởng môn.

Võ sư Lê Sáng không bao giờ đề cập đến quyền cước của môn phái mà ông chỉ nhấn mạnh đến tinh thần của nó. Ông nói nhiều đến điều gọi là “cách mạng tâm thân” để giữ vững tinh thần anh em chúng tôi và để hướng về tương lai. Võ sư thường nhấn mạnh : “Ở trong tù, đói khát như thế này thì làm sao gia đình thỏa mãn nhu cầu cho chúng ta được. Phải biết sống về tinh thần. Thực phẩm chỉ là phụ đệm”.

Dĩ nhiên, chúng tôi hiểu rằng nói thì dễ nhưng làm rất khó. Nhưng nhìn dáng dấp ông lúc nào cũng vững chãi, đường bệ, với hàm râu dài, nụ cười rất tươi, đôi mắt sáng quắc, ăn nói không thừa, không thiếu, giọng nói mạnh, sang sảng nhưng ôn tồn, lịch sự ngay cả khi trả lời những câu hỏi rất thiếu giáo dục của bọn cán bộ trại giam, chúng tôi vững tin ở cách rèn luyện tinh thần mà ông thường chỉ dạy cho anh em trẻ chúng tôi.

Võ sư Lê Sáng là người rất uyên bác về thơ đường. Có nhiều buổi tối ông ngâm thơ Đường cho chúng tôi nghe, nhưng anh em thích nhất là khi ông ngâm bài “Hồ Trường”. Nhiều anh em đã không tránh được ngậm ngùi mỗi lần nghe ông ngâm bài thơ này. Ông cũng ít kể chuyện, nhưng khi nghe ông kể chuyện kiếm hiệp của Kim Dung hay kể về bộ Tam Quốc Chí, anh em trong buồng giam theo dõi một cách hào hứng, có thể quên đói và quên hẳn cảnh tù đầy.


Sống trong môi trường bị giam hãm như vậy, mỗi hành động của những tù nhân nổi tiếng trong buồng giam 14 khu ED đều bị chú ý. Chẳng hạn như cứ vào mỗi buổi sáng, vị phó đại sứ Nam Hàn sửa lại bộ quần áo tù cho chỉnh tề rồi ông bước lại chiếu nằm của ông Phan Huy Quát bắt tay vị cựu thủ tướng này, cúi gập đầu xuống để chào và sau đó hai người mới thăm hỏi sức khỏe của nhau. Võ sư Lê Sáng nói với chúng tôi : “May ra mà trong cảnh nhiễu nhương hỗn tạp, giậu đổ bìm leo này, trong buồng giam còn có được những hình ảnh đẹp đẽ của nền văn minh”.

Khi chúng tôi bị chuyển lên trại Hàm Tân Z-30C vào những tháng đầu của năm 1977, đám lính giải giao thường dùng dây xích cứ 5 người một rồi khóa vào chân ghế ngồi trên những chiếc xe đò.

“Xâu” đầu tiên được đưa lên xe gồm những người mà tôi còn nhớ rõ, đó là Võ sư Lê Sáng, ông Phan Bá Cầm, nhà báo Lâm Tường Dũ, Đoàn Bá Phụ (cựu trung úy Nhảy Dù) và tôi. Lên đến trại Hàm Tân, chúng tôi và Võ sư Lê Sáng vẫn được phân phối vào một trại lao động. Sau khi ở Hàm Tân Z-30C được vài tháng thì võ sư Lê Sáng bị dẫn vào nhà kỷ luật và bị cùm lần thứ nhất trong đời tù chỉ vì ông có bộ râu dài.

Viên cán bộ an ninh trại cho gọi thợ hớt tóc (cũng là mấy anh em tù cải tạo) đến. Võ sư Lê Sáng ôn tồn : “Cán bộ muốn cạo thì xin cứ thi hành, nhưng tôi không vi phạm nội qui của trại, cán bộ nên nhớ như thế nhé”. Ông đứng im lặng như một gốc cây, mắt sáng quắc nhìn thẳng vào mặt Tý. Nhưng khi thợ hớt tóc vừa đến gần ông thì Tý gọi giật lại : “Thôi. Cứ để cho anh ấy để râu nhưng đem cùm xem có chịu cạo râu không”. Võ sư Lê Sáng bị cùm hai tuần lễ nhưng kể từ sau đó không ai trong trại giam còn để ý gì đến râu tóc của võ sư Lê Sáng nữa.

Khó khăn thứ hai của Chưởng môn Việt võ đạo là do chính tiếng tăm của ông. Không hiểu nhóm công an vũ trang chuyên canh gác tù ở các bãi lao động bàn tán với nhau như thế nào mà không một tên nào dám đi gần ông. Tại bãi lao động, một tù cải tạo phải đứng cách xa lính canh 5 thước, khi phải báo cáo xin đi tiểu tiện, nhưng riêng võ sư Lê Sáng phải đứng cách vệ binh 10 thước. Biết được điều đó nên võ sư Lê Sáng rất thận trọng trong đi đứng tại bãi lao động để tránh hiểu lầm. Một lần buổi sáng tập họp trước cộng trại giam để xuất trại đi lao động, võ sư Lê Sáng bị kêu ở lại trại để “làm việc”. Buổi trưa khi lao động về, chúng tôi túm lại hỏi ông xem có chuyện gì, nhưng ông chỉ cười và nói : “Chẳng có chuyện gì cả. Vài học trò cũ của tôi từ Bắc vào thăm”.

Sau này, trong những lúc ngồi nói chuyện riêng tư vào những ngày nghỉ lao động, võ sư Lê Sáng cho biết là Hà Nội nghe tiếng ông, muốn vào thăm ông và cho người thử thách, nhưng ông từ chối vì, theo lời ông, “tôi học võ để rèn luyện tinh thần, không phải là để thi đấu, tôi là chưởng môn mà còn đi dương danh là một lỗi lầm với môn phái, tôi không làm điều ấy”.

Chúng tôi ở với nhau ở Hàm Tân Z-30C đến năm 1979 thì bị chuyển trại theo phương án 4 tức được lọc lựa ra và đưa vào danh sách “chết” tức là danh sách không thể cải tạo được, và không bao giờ được xét tha theo quan điểm của trại giam. Thế là đang đêm chúng tôi lại bị gọi tên, bị xiềng đưa lên xe đò và đưa lên A-20 Xuân Phước, tức trại trừng giới.

Tôi đã viết khá nhiều điều về trại này, nên ở đây tôi chỉ nói đến hoàn cảnh của Chưởng môn Việt võ đạo khi bị đưa đến cái trại nổi tiếng khủng khiếp này trong suốt giai đoạn I, từ 1980 cho đến cuối 1988. Đến A-20 được 3 tháng thì Chưởng môn Vovinam Lê Sáng vào cùm ngay. Lần vào cùm này không do bất cứ một lỗi lầm về nội qui của võ sư Lê Sáng mà chỉ vì ông được sự kính nể và quí mến của anh em trong trại từ tập trung cải tạo, tù chính trị có án hay tù hình sự, ở cách ông cư xử và chia sẻ đói khổ với anh em, ở tinh thần vững chãi để đối phó với mọi hoàn cảnh khó khăn cùng quẫn trong tù, ông cũng không hé ra một lời nào có thể xâm hại đến người khác.

Trong bối cảnh này, bọn trại giam nhắm vào việc triệt hạ những thần tượng của tù cải tạo. Cũng chỉ vì thế mà Chưởng môn Việt võ đạo Lê Sáng vào cùm hết một năm. Khi ra khỏi nhà kỷ luật, sức khỏe của cụ có sa sút, nhưng giọng nói vẫn sang sảng và đôi mắt vẫn sáng quắc. Ra khỏi nhà kỷ luật hôm trước thì hôm sau ông đi lao động ngay. Võ sư Lê Sáng nói : “Ra ngoài cho khỏe”. Quả thật sức khỏe của võ sư Chưởng môn Vovinam phục hồi rất nhanh. Ông nói : “Vì khí trời”. Khi võ sư Lê Sáng về tiếp tục sinh hoạt ở đội lao động được vài tuần lễ thì tôi cùng một số bạn khác vào nằm cùm mãi cho đến năm 1985 mới gặp lại võ sư Lê Sáng tại phân trại B của A-20 để chuẩn bị chuyển trại.

Trước Noel 1985, chúng tôi chuyển trại về Z-30A nằm trong phương án đặc biệt mà Hà Nội đã thỏa thuận với Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ, đó là thỏa thuận về chương trình HO. Võ sư chưởng môn Việt Võ Đạo Lê Sáng được thả tại Z-30A, trước thời gian tôi cũng như một số anh em khác từng làm tờ Hợp Đoàn, tờ báo chui ở A-20 bị “điệu” về trại Phan Đăng Lưu để chờ ngày ra tòa. Nhưng cuối cùng, vụ án được hủy bỏ và chúng tôi được đưa trở lại Z-30A tiếp tục nằm trong nhà kỷ luật.

Năm 1988, tôi được thả về và ít lâu sau có đến tổ đường của Vovinam trên đường Sư Vạn Hạnh để thăm võ sư Chưởng môn. Lúc này tổ đường Vovinam đã được củng cố. Các môn sinh người ngoại quốc từ Âu châu và các môn sinh Vovinam từ khắp Việt Nam đã lục tục kéo về để ra bái lậy Chưởng môn. Trong câu chuyện thăm hỏi tôi, ông cứ nhắc mãi đến “cách mạng tâm thân” và tính nhân bản của Việt võ đạo.
Bây giờ, cụ Lê Sáng đã ra người thiên cổ. Cụ thọ 91 tuổi. Trong bức hình chụp Võ sư Lê Sáng mà các bạn ở Việt Nam gởi cho, tôi thấy đôi mắt võ sư Chưởng môn Việt võ đạo vẫn sáng quắc như ngày nào.

Tôi viết những kỷ niệm trên với Võ sư Chưởng môn Việt võ đạo trong thời tù để gọi là đại diện cho một số anh em cựu tù của trại Hàm Tân Z-30C, A-20 và Z-30A bái vọng cố quốc để tiễn đưa cố võ sư Chưởng môn. Bởi trong những đêm tối ấy, ông vẫn như ngọn đèn sáng dẫn dắt tinh thần anh em chúng tôi. Cố võ sư Chưởng môn là một người cả đời hy sinh cho Việt võ đạo và đây cũng là lý do ông cụ không bao giờ lập gia đình.

Tuy nhiên, cụ có rất nhiều đứa con tinh thần vì trong tù chúng tôi đều gọi Võ sư Chưởng môn Vovinam là bố, “Bố Lê Sáng”. Vả lại ngày nay, trên khắp thế giới, hàng chục ngàn môn sinh Vovinam cũng đang thổn thức vì những mất mát không có gì bù đắp được cho môn phái vì sự khuất bóng của Võ sư Chưởng môn.




Vũ Ánh
Read more…

ĐỨC QUỐC: LGP. MÜNSTER VÀ OSNABRÜCK MỪNG KÍNH QUAN THẦY „CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM“ , 10.09.2022

Ngày hân hoan kính mừng Chư Thánh
Gương tử hùng lóng lánh như sao
Tình yêu đạo Chúa chí cao
Tuyên xưng danh Thánh máu trào thơm hương.

Hằng năm cứ vào độ trung tuần tháng chín, lá vàng đôi chiếc chớm trên cành như điểm tô và báo hiệu sắp vào thu thì giáo dân vùng Tây Bắc Đức Quốc cũng bắt đầu trở về Trung tâm Mục vụ Neuenkirchen để mừng kính Các Thánh Tử Đạo Việt Nam (CTTĐ VN) và cũng là ngày mừng kính Bổn Mạng của Cộng đồng Liên Giáo Phận Münster và Osnabrück.

Năm nay dịch bệnh Covid cũng đã giảm đi rất nhiều so với những năm trước nên chương trình rước kiệu tôn vinh CTTĐ VN và Thánh lễ đều được trang nghiêm, sốt sắng và thoải mái hơn.

Đúng 10giờ30, cha Tuyên úy Phêrô trang trọng đọc lời nguyện và xông hương di ảnh kiệu CTTĐ VN. Ba hồi chiêng trống vang lên, đoàn rước kiệu bắt đầu với
Bình hương, Thánh Giá Nến Cao dẫn đầu, từng đoàn người của các hội đoàn nối tiếp hân hoan vang tiếng kinh cầu.

Đây bài ca ngàn trùng, dâng về Thiên Chúa, bài ca thắm đậm máu hồng, từng bao người anh dũng tiến lên hy sinh vì tình yêu.

Vâng, đúng như vậy! khi xưa dưới những thời bách đạo nơi quê hương Việt Nam, cha ông chúng ta đã hy sinh, hiến dâng hơn 130.000 (Một trăm ba mươi ngàn)
người đã hiên ngang hy sinh mạng sống mình vì đạo Chúa, đạo Tình Yêu chấp nhận heo bước chân Thầy Giêsu Chí Thánh để cùng lên đồi Golgôtha vinh thắng và nay đã nở hoa khải hoàn. Đoàn kiệu cùng nhau tiến về ngôi thánh đường thánh Giuse thân thuộc mỗi khi có những dịp lễ quan trọng hằng năm nơi đây.

Đầu Thánh lễ, cha Tuyên úy Phêrô Quân chào mừng tất cả mọi người hôm nay đã đến để hiệp dâng trong Thánh lễ mừng kính CTTĐ VN. Ngài cũng chào mừng đặc biệt tới ông Franz Thomas Sonka, người đại diện tòa Giám Mục Münster đặc trách về ngoại kiều cùng qúy vị quan khách Đức - Việt v.v...

Sau hai bài đọc song ngữ Việt-Đức, cha Phêrô chia chia sẻ Lời Chúa với tâm tình của lòng mến và tình yêu thương theo đường lối của Thiên Chúa nơi CTTĐ khi
xưa. Các ngài bị bắt bớ, tù đày, tra tấn, bỏ đói và đưa ra pháp trường nhưng vẫn kiên trung làm chứng tá theo chân Chúa Giêsu cho đến hơi thở cuối cùng. Trong thời đại ngày nay chúng ta có còn những hình thức bách đạo như thế không? Chắc là rất hiếm nhưng lại có những hình thức khác nguy hiểm không kém.

Mục tiêu của cuộc bách đạo thời nay vẫn là cản trở, ngăn cấm con người đến với Thiên Chúa, hoặc bằng mọi giá, cắt đứt tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Một loại gông cùm xiềng xích mới, một loại nhà tù hiện đại đang được sử dụng khắp nơi trên thế giới và rất phổ biến ở lục địa âu Châu bây giờ.
Mục tiêu của cuộc bách đạo mới không chỉ đơn thuần là việc bắt bớ, bỏ tù một vài người đấu tranh cho tự do nhân quyền, cho tự do tôn giáo, nhưng là bỏ tù cả ngàn ngàn người trong cái hố bằng lòng về sự tự do xem như là đủ đầy mà thực ra đó là thứ tự do làm nô lệ. Cũng vậy, việc đập phá một ngôi thánh đường, chưa bằng đập phá hằng triệu đền thờ Thiên Chúa nơi tâm hồn các tín hữu bằng những chủ thuyết vô thần, vô luân khiến không còn niềm tin tôn giáo nào trong chính tâm hồn người Công giáo. Việc đóng cửa nhà thờ, không cho các tín hữu hành đạo vẫn chưa nguy hiểm bằng để tự họ cảm thấy việc đến nhà thờ không còn cần thiết hơn việc đi du lịch, xem phim, giải trí và các tiêu khiển khác của một nền văn hóa hưởng thụ với đầy đủ những thứ vui chơi. Những thứ đó làm cho cánh cửa tâm hồn các tín hữu tự đóng lại để không đón nhận được Thiên Chúa, và tự mở ra để đón nhận những trào lưu thế tục là mục tiêu cuộc bức bách nguy hiểm vô cùng. Ngoài ra, cha chủ tế còn chia sẻ rất nhiều đều ý nghĩa cho đời sống đạo của chúng ta bậy giờ.v.v... 

Những lời nguyện song ngữ của giáo dân cầu cho Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng và hàng giáo phẩm, cộng đồng và những linh hồn tiền nhân của chúng ta.

Của lễ hôm nay được những thế hệ trong gia đình tiến dâng lên bàn thờ Chúa tượng trưng cho tấm lòng thành kính của cộng đồng dâng lên Thiên Chúa qua bàn tay thánh hiến của vị mục tử.

Ca đoàn tổng hợp hôm nay với những bài thánh ca thật hùng hồn, long trọng và xuất sắc, làm cho mọi người hòa quyện theo những lời du dương lâng lâng nâng tâm hồn lên với Chúa.

Đầu rơi máu chảy vì chân lý
Đạo Chúa Trời Thiên Ý truyền rao
Hồn dâng dâng tựa sóng trào
Vương cao cao ngất dạt dào hương thơ.

Cuối thánh lễ, ông Franz Thomas Sonka đại diện tòa Giám Mục Münster có đôi lời chúc mừng và chia sẻ cũng như cảm ơn Cộng Đồng Công Giáo Việt Nam đã có những truyền thống sống đạo tốt đẹp và mong rằng chúng ta luôn phát huy tinh thần đạo hạnh này để một phần nào đó giữ gìn nét văn hóa tốt đẹp của chúng ta.

Kế đến là ông Giuse Đinh Kim Tân, Chủ tịch Hội đồng Mục vụ LGP. có đôi lời cám ơn đến cha Tuyên úy Phêrô, ông Sonka, quý khách và tất cả các ban ngành cũng như mọi bàn tay đóng góp cho ngày lễ hôm nay được tốt đẹp.

Cha Tuyên úy cũng có lời cảm ơn vắn tắt đến quý khách cùng mọi thành phần trong Gia đình LGP và lặp lai lời mời mọi người sau Thánh lễ ghé sang hội trường
nơi Trung tâm Mục vụ để cùng chung vui bữa trưa và văn nghệ trong ngày mừng lễ.

Vào hội trường thật khang trang. Mọi người tay bắt mặt mừng vui ngày hội lớn trong hân hoan. Những ly cà phê đậm đà tình anh em trước khi bữa tiệc bắt đầu.

Ban Ẩm thực do sự chung tay khéo léo của nhiều anh chị em trong và ngoài Gia đình LGP với nhưng món ăn thật hấp dẫn và rất ngon miệng. Những món ăn đậm đà hương vị Việt không tiện kể hết ra đây nhưng hứa hẹn cho những ai lần này trễ hẹn thì lần sau xin mời đến cùng thưởng thức.
Sau khi đã được ấm bụng và tình hàn huyên vui vẻ thì một chương trình văn nghệ cây nhà lá vườn rất vui và xuất sắc với rất nhiều ca sĩ mới và cũ cùng những bản đồng ca vui nhộn và lôi cuốn như không muốn chấm dứt cho đến chiều. Cuộc vui nhiều lắm nhưng xin được chấm dứt trong lưu luyến với bài thơ bên dưới.

Khải hoàn ca vang lừng khắp chốn
Thắm Đất Việt hơn bốn ngàn năm
Đức tin hạt giống vùi nằm
Máu xương ươm xuống hàng trăm ngàn người

Đồng lúa thắm xanh tươi đang trổ
Giữa cuộc đời bão tố phong ba
Hàng hàng lớp lớp đồng ca
Vươn cao cao mãi trổ hoa khải hoàn

Ngày Giáo Hội hân hoan mừng kính
Cả đất trời ca vịnh dâng lên
Một trăm mười tám khắc tên
Thánh nhân tử đạo vang rền năm châu

Nay hậu bối cúi đầu kính nhớ
Đất Phương Nam vẫn nở hoa hồng
Hạt "Lời" gieo xuống cánh đồng
Vươn lên xanh mướt thơm nồng tỏa lan

Chân - Thiện - Mỹ "Lời" ban sức sống
Mảnh vườn hoang nay bỗng trổ hoa
Thơm hương hương thắm tình Cha
Vươn cao cao ngất "Trường Ca Khải Hoàn".

Trầm Hương Thơ

11.09.2022
Read more…

LIÊN HỘI NGƯỜI VIỆT TNcs. TẠI ĐỨC QUYÊN GÓP CỨU TRỢ KHẨN CẤP CHO UKRAIN HƠN 7000 EURO

Trong thời gian qua đất nước Ukrain tươi đẹp đã bị quân đội Nga tấn công, xâm lăng làm cho nhiều người chết và bị thương. Hàng nhiều triệu người đã phải bất đắc dĩ rời bỏ quê hương yêu dấu của mình dưới làn bom đạn để chạy sang những nước láng giềng hoặc xa hơn để đi tị nạn.

Ông Nguyễn Văn Rị người đứng (giữa) từ Mönchengladbach đã cùng với vị Linh mục khả kính Johannes van der Vorst (phải) trao tấm Ngân Phiếu 7.080 Euro (Bảy ngàn không trăm tám mươi Âu Kim) đến tận tay cho Ông Frank Polixa Giám đốc điều hành Caritas.
Read more…

OCEAN VUONG: MỘT NHÀ THƠ LỚN, THIÊN TÀI GỐC VIỆT...

Một người Mỹ gốc Việt (quê mẹ ở Gò Công, Tiền Giang. Sau 30.4.75 vượt biên và định cư ở Mỹ),

33 tuổi, vừa được trao một giải thưởng văn chương danh giá của Mỹ trị giá $625.000.
Anh được người Mỹ đánh giá là thiên tài văn chương mới của nước Mỹ.
***


OCEAN VUONG: MỘT NHÀ THƠ LỚN, THIÊN TÀI GỐC VIỆT...
“Có những người con làm rạng danh cha mẹ
Có những con dân làm rạng danh Tổ quốc”.
Tôi hỏi 8 người bạn thích đọc sách, biết Ocean Vuong không? Tất cả đều trả lời là không, vậy là tôi nằm trong khối đa số hổ thẹn, vì không biết đến một nhân tài gốc Việt, sống ở Mỹ, một thi sĩ mà người bản xứ không tiếc lời ca tụng, cho giải thưởng về thơ (genius prize) trị giá 625.000USD
Thơ của em, Night Sky With Exit Wound (Trời đêm với những vết thương xuyên thấu) và quyển tiểu thuyết Trên Trái Đất Chúng Ta Một Thoáng Huy Hoàng (On the earth, we’re gorgeous) được dịch ra 30 thứ tiếng, kể cả tiếng Việt; quyển tiểu thuyết được New York Times cho là “biến cố văn chương” năm 2019, và trong danh sách best sellers trong 6 tuần liên tiếp.
XUẤT THÂN
Từ đây, tôi gọi tên em là Vương Hải, chứ không gọi Ocean Vuong như người Mỹ.
Em sinh năm 1988, bà Ngoại tên Lan, mẹ tên Hồng, gốc người Gò Công, gia đình 6 người vượt biên qua trại tị nạn Philippines, ở đó 1 năm, định cư ở Mỹ năm 1990, lúc Hải được 2 tuổi.
Gia đình 6 người cư ngụ trong một căn hộ chung cư có một phòng ngủ, ở vùng da đen Harford, Connecticut. Nơi đây đã để lại dấu ấn trong đời và trong thơ văn của Hải. Cho tới khi tiếp xúc với bên ngoài, em cứ nghĩ nước Mỹ là của người da đen.
Tên khai sinh do Cha đặt là Vương Quốc Vinh, sau khi Cha đi tù vì tội bạo hành mẹ, ly dị mẹ ,bỏ nhà ra đi, người mẹ quyết định đổi tên em là Hải để cắt đứt với quá khứ.
Một lần phỏng vấn, hỏi nguồn thơ của em từ đâu ra, em trả lời là mặc dù mẹ em mù chữ, nhưng khi đặt tên em, bà nghĩ đến Thái Bình Dương, là biển nối liền Mỹ với quê hương VN là có ý thơ rồi (phải chăng từ câu hát: “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào”). Hơn nữa, em được giáo dục bởi 3 người đàn bà: bà ngoại, mẹ và dì Mai, đã đọc thơ, kể chuyện, hát ca dao cho em nghe, do đó thơ, từ thuở nhỏ đã thấm vào hồn em.
Bà ngoại Lan, là người mù chữ, cũng như mẹ em và dì Mai, có lẽ trong gia đình có gen ex mang chứng khó đọc chữ (dyslexia) vì người em của Hải đã bị chứng này.
Thời trẻ bà Ngoại bỏ nhà ra đi, làm me Mỹ, gặp ông Ngoại là người Mỹ da trắng, tên Paul, gốc nông dân ở Michigan, cũng bỏ nhà, đăng lính Hải quân, qua chiến đấu ở VN.
Bà ngoại sinh 2 cô con gái, giống Mỹ nhiều hơn giống Việt. Có lúc vì khó khăn, bà phải bỏ con vào cô nhi viện, khi chồng về Mỹ năm 1971 và không trở lại.
Chính bà ngoại là người đã kể cho Hải nghe chuyện chiến tranh VN, do đó, dù đến Mỹ năm 2 tuổi, chiến tranh VN bàng bạc trong thơ văn của Hải. Có thể nói, Hải rời VN nhưng VN không rời Hải.
Mẹ Hải, bà Hồng, sống bằng nghề làm móng tay.
Người tình đầu của em là Trevor, da trắng, con nông gia trồng thuốc lá, là đề tài mà em đã viết trong thơ và quyển tiểu thuyết hết sức sống động. Sau đó, Trevor chết vì chích ma túy quá liều.
Hình ảnh người cha vắng mặt trong đời em, được tả một cách nhạt nhòa bàng bạc trong thơ Hải.
QUÁ TRÌNH HỌC VẤN
Hải đi học Mẫu giáo hồi 5 tuổi, nhưng mãi tới năm 11 tuổi em mới đọc và hiểu được tiếng Anh một cách thông thạo.
Sau đó em thường đi thư viện và miệt mài trong sách vở. Em kể khi nghe băng bài diễn văn của Mục sư Martin Luther King, Jr “I have the dream” thì em bắt đầu có mộng lớn của riêng mình.
Chú bé cô đơn, bị hiếp đáp trên xe bus, trên đường đi học, tìm an ủi trong sách vở, bắt đầu làm thơ. Thầy giáo nghĩ là em đạo văn, ông không thể tưởng tượng một đứa học trò nghèo, xuất thân từ gia đình mù chữ, phát âm chữ THE cũng ngọng, thì làm sao có thể làm thơ hay như vậy, nên phạt em về tội ăn cắp, ăn cắp Thơ. Nhưng ông giáo đã lầm, một Thiên tài vừa xuất hiện mà ông không biết!
Em kể: tôi viết rất chậm, xem từ ngữ như một vật thể, tôi luôn cố tìm từ ngữ trong từ ngữ:
Tôi bước vào đời mình
Cách từ ngữ
Bước vào tôi
Nói về chuyện đọc sách, em viết:
Ôi thằng con ngốc
Con có thể lạc lối trong mọi cuốn sách
Nhưng không bao giờ quên được chính mình.
Vào Đại Học, lúc đầu em chọn Marketing vì hy vọng sẽ kiếm được nhiều tiền để giúp gia đình, nhưng sau 8 tuần thì em bỏ học, vì biết mình đã chọn sai, nên đổi qua Brooklyn College - ĐH New York, theo học Văn chương Anh thế kỷ 19. Em lấy bằng BA, sau đó tốt nghiệp MFA về Thơ của ĐH New York, hiện nay làm Giảng sư MFA ở ĐH Massachusetts, thành phố Amherst.
Quyết định chuyển ngành học từ Marketing qua Văn chương là điều may cho bản thân Hải, cho nước Việt và cho thế giới Thi ca: một nhân tài có dịp để thăng hoa.
Tạp chí Foreign Policy bình chọn Ocean Vuong là 1 trong 100 nhà tư tưởng hàng đầu nhân loại trong năm 2016.
Tôi xin trích vài bài dịch thơ, nói về các người thân của Vương Hải.
VỀ MẸ:
* Trong bài thơ Rồi Có Một Ngày, Ta Sẽ Yêu Ocean Vương
Hải, bạn đang nghĩ gì?
Phần đẹp nhất của y thể là bất cứ nơi đâu.
Phủ hình bóng mẹ (trang 82)
* Trong bài thơ Đầu Ra Trước (head first)
Nhưng chỉ có người mẹ, có thể bước đi, với sức nặng của nhịp đập của quả tim thứ hai (trang 20)
Tôi nghĩ tôi thương mẹ nhiều lắm (trang 70)
Con thương mẹ, mẹ ơi (trang 7)
Không có gì bằng cơm với cá,
Không có gì bằng má với con (thành ngữ VN, trang 20)
VỀ CHA:
Đừng lo, cha mày chỉ là cha mày.
Cho đến, khi một người trong nhà quên mất.
Giống như cách mà xương sống,
Không nhớ hai cánh tay.
VỀ BÀ NGOẠI :
* Trong tập thơ Burning
Ngoại tôi hôn.
Như thể bom đang nổ sau nhà,
Nơi mà bạc hà và hoa lài toả hương,
Qua cửa sổ bếp,
……….
Khi ngoại tôi hôn, sẽ không
Có âu yếm cầu kỳ, không âm nhạc Tây phương
Của đôi môi mím chặt, ngoại hôn như để hút lấy
Bạn vào trong bà.
Vương Hải như đóa sen, mọc từ bùn, vươn lên và tỏa hương. Em đi từ no one (không là ai) trở nên anyone (bất cứ ai) rồi trở thành someone (một người hơn người).
Tôi theo dõi nhiều buổi phỏng vấn, đọc thơ của Vương Hải trên các chương trình TV Mỹ, Canada, Pháp, Đức. … Điều đập vào mắt tôi là cách em chào cử tọa, cúi mình thật thấp. Người Nhật bảo: những hạt lúa chín là những hạt lúa cúi đầu - thái độ thật khiêm tốn, ăn mặc giản dị, giọng nói nhẹ nhàng của phái nữ, trầm bổng đầy chất thơ.
Thật khó tưởng tượng một chú bé, thuở nhỏ nói thứ tiếng Anh của người da đen ít học. Một lần ở tiệm Sears, người bán hàng hỏi em là con nuôi của mẹ (vì mẹ là con lai Mỹ rất trắng), em trả lời không, tôi từ asshole của mẹ tôi ra. Ngày nay, em sử dụng thứ tiếng Anh hết sức trau chuốt của giới trí thức khoa bảng.
Em kể lại, thuở nhỏ, bài học đầu tiên mà bà ngoại và mẹ em dạy để sinh tồn ở nước Mỹ là đừng để ai chú ý tới mình. Vì mình là người Việt da vàng đã khác họ rồi, phải làm sao để trở nên... vô hình, mẹ dạy con phải tự biến mất. Em hiểu là người lớn muốn cho em yên thân, được an toàn (ngày nay với phong trào bài Á, những lời khuyên đó có còn đúng ?)
Có sự khác biệt giữa thế hệ thứ nhất và thế hệ thứ hai. Thế hệ 2 muốn người ta biết đến mình, để vươn lên; tự hào về mình. Thế hệ thứ nhất dạy con mình biến đi, tự vệ bằng cách tự xóa mình.
Mong em sẽ đi xa hơn nữa (vì còn quá trẻ, 33 tuổi) trong sự nghiệp sáng tác của mình để đạt được Nobel Văn học.
Tiếc cho em, đạt được vinh quang, thoát cảnh nghèo, thì những người thân lần lượt ra đi: bà Ngoại, người đã dạy Văn chương bình dân VN , kể cho em nghe về cuộc chiến tàn khốc, chết vì ung thư xương giai đoạn cuối, mà em đã tả một cách sống động trong tiểu thuyết.
Người mẹ Hải hết lòng thương yêu (Con thương mẹ, mẹ ơi) ra đi vì ung thư vú di căn. Người mẹ, làm nail, suốt ngày phải cúi đầu giũa móng tay, móng chân cho khách, luôn miệng nói sorry, sợ đau khách sẽ không được tip.
Một bữa, khi dự buổi ra mắt sách của Hải, nghe con đọc thơ tiếng Anh mà bà chẳng hiểu gì, chỉ quan sát cử tọa, bà khóc nức nở vì sung sướng.
Bà nói: “Má không bao giờ nghĩ là mình sẽ sống để thấy ngày những người da trắng, đứng tuổi, vỗ tay tán thưởng con của má”.
Hải trả hiếu cho Mẹ bằng sự thành công khi được đánh giá là Thiên tài nước Mỹ. Có chăng một chốn gọi là chín suối? Nếu có, chắc Mẹ em đang nở nụ cười mãn nguyện: nhiệm vụ của bà đã hoàn thành.
Cám ơn Vương Hải, đã cho tôi niềm hãnh diện của người Việt
“Summer in the mind,
God opens his other eye:
Two moons in the lake”.
Vương Hải
TĂNG QUỐC VIỆT
Read more…